Monday, December 7, 2015

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

    
         1. Tiến trình hội nhập
         Các nội dung cam kết thương mại trong khung khổ WTO và các Hiệp định khu vực thương mại tự do (FTA) chính được cập nhật đầy đủ nhất trong nghiên cứu của Trương Đình Tuyển và cộng sự (2011, Bảng 1). Tiến trình hội nhập kinh tế sâu rộng của Việt Nam bắt đầu từ năm 1995 với 3 mốc quan trọng nhất. Thứ nhất, Việt Nam đã đàm phán và ký Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ vào năm 2000. Tác dụng nổi bật của Hiệp định này, một mặt là bước tập dượt quan trọng để Việt Nam tham gia sâu rộng hơn vào tiến trình hội nhập khu vực (tham gia các FTA) và toàn cầu (gia nhập WTO). Mặt khác, hiệp định này cho phép Việt Nam tiếp cận thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới mà không bị phân biệt đối xử. Thứ hai, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và tiếp đó là FTA với các đối tác (ASEAN+). Thứ ba, Việt Nam đã đàm phán gia nhập WTO và trở thành thành viên của tổ chức này tháng 1/2007. Cùng với các FTA khu vực, Việt Nam cũng đã ký Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (EPA) với Nhật Bản mà thực chất là một FTA song phương.
Với các hiệp định nêu trên, Việt Nam đã tạo ra những cơ hội to lớn cho việc thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN) và hoạt động xuất khẩu; qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo thêm việc làm. Mặt khác các hiệp định này cũng gây ra những thách thức gay gắt cho doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Nếu như khi gia nhập WTO, sức ép lớn nhất là về mặt thể chế và dịch vụ, thì các hiệp định FTA song phương và khu vực lại gây nhiều sức ép nhất đến thương mại hàng hóa do mức độ cắt giảm thuế sâu rộng trong hiệp định nội khối ASEAN và một số hiệp định ASEAN+: có khoảng 90% số dòng thuế sẽ về 0% vào năm 2015, phần lớn trong số còn lại sẽ đưa về 0% vào năm 2018. Minh chứng rõ nhất cho thực tế này là để thực hiện các cam kết WTO, Việt Nam đã phải sửa đổi, ban hành nhiều luật, pháp lệnh, nghị định liên quan tới quy định trong nước (thể chế), trong khi tất cả các cam kết trong ASEAN, các hiệp định FTA ASEAN+ và Hiệp định Đối tác kinh tế ASEAN - Nhật Bản hầu như không ảnh hưởng tới các quy định về thể chế. Mặc dù cơ hội và thách thức đều lớn nhưng việc tận dụng cơ hội đến đâu, vượt qua thách thức thế nào lại phụ thuộc vào thể chế và chính sách (tức là vào hoạt động quản lý của các cấp chính quyền, chủ yếu là cấp Trung ương và cấp tỉnh) cũng như hoạt động của doanh nghiệp
2. Việt Nam trong các cam kết thương mại trong khung khổ các FTA
2.1 Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc
Cũng như các thành viên khác của ASEAN, khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc hình thành cũng sẽ mang đến cho Việt Nam những thuận lợi lớn và cả những thách thức không nhỏ.
Trong lĩnh vực thương mại, với dân số 1,3 tỷ người, điều kiện địa lý lại  gần với Việt Nam, nhân tố Trung Quốc trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc mở ra cho Việt Nam một thị trường lớn để xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm thuỷ sản… Cơ hội xuất khẩu lớn này sẽ giúp Việt Nam ổn định và tiếp tục phát triển ngành nông nghiệp, ngành hiện đang có vai trò kinh tế, xã hội quan trọng ở Việt Nam.
Trong lĩnh vực đầu tư, khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc cũng sẽ thúc đẩy đầu tư và các mối quan hệ hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Trung Quốc với ASEAN và Việt Nam. Chúng ta có cơ sở để tin rằng đầu tư , chuyển giao công nghệ, du lịch, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực… của Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng.
Như đã nói ở trên, khi ACFTA hình thành, mặc dù triển vọng tăng cường xuất khẩu giữa Trung Quốc và ASEAN là rất lớn, song đối với Việt Nam cơ cấu kinh tế và cơ cấu hàng hoá trao đổi dễ dẫn đến tình trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục phát triển theo quan hệ hàng dọc, trong đó Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm thuỷ sản và nhập khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc (điều này khác với các nước ASEAN - 6 có quan hệ ngang hàng với Trung Quốc, xuất nhập khẩu đều chủ yếu là hàng công nghiệp). Điều đó sẽ bất lợi cho Việt Nam cả trong quan hệ thương mại lẫn trong cố gắng công nghiệp hoá nền kinh tế. Hơn nữa, cán cân thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc sẽ tiếp tục phát triển theo hướng Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc ngày càng tăng.
Một thách thức khác là ACFTA hình thành sức ép cạnh tranh trên thị trường nội địa Việt Nam sẽ càng thêm nặng, đặc biệt là đối với các ngành công nghiệp trẻ. Điều dễ nhận thấy là các doanh nghiệp Trung Quốc mạnh hơn doanh nghiệp Việt Nam ngay trong các ngành Việt Nam đang tương đối có lợi thế cạnh tranh như dệt may, da giày, sản xuất hàng tiêu dùng. Đối với các ngành Việt Nam đang mong muốn đi vào phát triển như các sản phẩm công nghệ cao (thiết bị điện tử, điện tử, công nghệ thông tin…) thì Trung Quốc đều đã và đang phát triển mạnh, với năng lực cạnh tranh cao. Khi hàng rào thuế và phi thuế  được hạ thấp, hàng hoá và doanh nghiệp Trung Quốc sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường Việt Nam, và doanh nghiệp Việt Nam sẽ rất vất vả để có thể đứng vững trên thị trường nội địa.
Dù thế nào đi nữa, ACFTA hình thành sẽ thúc đẩy sự phát trỉen của toàn bộ khu vực Đông Nam á và Đông á, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN+3 , tạo vị thế tốt hơn cho cả khu vực và mỗi thành viên trong tiến trình tham gia vào toàn cầu hoá.
2.2 Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA)
Hiệp định khung ASEAN-Hàn Quốc hoàn tất đàm phán tháng 12/2005, bắt đầu có hiệu lực đối với Việt Nam từ năm 2006. Các hiệp định cụ thể về thương mại hàng hóa và dịch vụ bắt đầu có hiệu lực tương ứng từ tháng 6/2007 và tháng 5/2009. Tự do hóa thương mại hàng hóa được thực hiện bởi các nước thành viên theo lộ trình khác nhau cho 3 nhóm hàng hóa (nhóm thông thường, nhạy cảm và nhạy cảm cao tương ứng với các thời hạn cắt giảm thuế sớm, trung hạn và dài hạn). Ngoài ra, 4 nước kém phát triển hơn (CLMV) được ưu đãi kéo dài thời hạn cắt giảm thuế so với các nước khác. Kể từ năm 2010, 6 nước ASEAN và Hàn Quốc đã cắt giảm thuế về 0% tới 90% số dòng thuế đồng thời chiếm tới 90% giá trị thương mại trong khi Việt Nam cam kết tự do hóa dần 75% số dòng thuế tới năm 2018, được gia hạn đối với các nhóm sản phẩm nhạy cảm và nhạy cảm cao tương ứng tới năm 2021 và 2024.
AKFTA sẽ làm gia tăng tổng phúc lợi nhưng tỷ lệ mậu dịch có khả năng sẽ trở nên bất lợi trong dài hạn vì chi phí lao động sẽ gia tăng cùng với quá trình thực thi Hiệp định và các sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhiều lao động sẽ chịu thiệt về tỷ lệ mậu dịch. Tuy nhiên, AKFTA có thể dẫn đến suy giảm về chi phí hàng hóa vốn nhập khẩu vào Việt Nam nhờ có nguồn hàng hóa vốn từ Hàn Quốc và các đối tác FTA khác. Tuy nhiên, lợi ích quan trọng nhất là việc phân bổ nguồn lực tốt hơn nhờ tự do hóa thương mại (về trung và dài hạn). Điều thú vị là Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích về đầu ra (gia tăng sản xuất) nhờ AKFTA nhiều hơn so với các nước ASEAN khác (Indonesia, Thái Lan và Philippines) vì tăng trưởng chung xuất khẩu của Việt Nam sẽ cao hơn tăng trưởng chung về nhập khẩu của Việt Nam so với các đối tác ASEAN. Các ngành có mức tăng trưởng cao nhất là các ngành có lợi thế so sánh về chi phí lao động thấp (dệt may, sản phẩm da và giày dép, điện tử, máy móc công cụ và xây dựng). Các ngành mới có tiềm năng trỗi dậy là điện tử và chế tạo khác. Với việc cắt giảm thuế, các sản phẩm trung gian sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến mức giá rẻ hơn trong dài hạn. Báo cáo cho thấy các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc sẽ gia tăng đáng kể. Tuy nhiên, Hiệp định cũng sẽ cải thiện việc xuất khẩu sang các nước khác (đặc biệt là các đối tác FTA khác của ASEAN) vì Hàn Quốc có khả năng sử dụng Việt Nam làm trung tâm công nghiệp để xuất khẩu sang các nước khác.
2.3 Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) là hiệp định toàn diện, chứa đựng các quy tắc căn bản về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và các hoạt động hợp tác kinh tế khác. Trong đó, quan trọng nhất là các cam kết về lộ trình giảm thuế, tiến tới loại bỏ phần lớn thuế nhập khẩu (NK) giữa các nước ASEAN và Nhật Bản. Theo Hiệp định này, Việt Nam cam kết loại bỏ thuế quan đối với 82% giá trị NK từ Nhật Bản trong 16 năm và 69% giá trị NK trong vòng 10 năm. Đổi lại, Nhật Bản loại bỏ thuế quan đối với gần 94% giá trị NK từ Việt Nam trong vòng 10 năm. Khi hiệp định có hiệu lực, Nhật Bản ngay lập tức loại bỏ thuế quan đối với 7.287 dòng thuế, tương đương 80% biểu thuế. Đã có 3.718 thương vụ xuất nhập khẩu (XNK) thông qua Hiệp định AJCEP, với kim ngạch 17 tỷ USD, đứng đầu trong số các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và Hiệp định Thương mại khu vực (RTA) mà Nhật Bản đã ký kết. Trong đó, có rất nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam như dệt may, da giày, thủy sản…
Như vậy, có thể khẳng định AJCEP là một xúc tác quan trọng, thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư giữa Nhật Bản và Việt Nam. Thông qua các hoạt động cụ thể như:
- Khai thác tối đa ưu thế xuất khẩu (XK) đối với mặt hàng nông thuỷ sản. Hàng Việt Nam sẽ tạo được một vị thế mới trong XK ra thế giới. 61 mặt hàng chiếm 70% giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu 0% ngay khi Hiệp định AJCEP có hiệu lực và 144 mặt hàng chiếm 83% giá trị xuất khẩu sẽ không còn chịu thuế nhập khẩu trong vòng 10 năm.
- AJCEP mang lại nhiều cơ hội tăng trưởng XK cho Việt Nam vì đa số các mặt hàng được giảm thuế nhiều nhất cung là các mặt hàng XK chủ lực sang thị trường Nhật Bản. Ngay khi Hiệp định có hiệu lực, 95% số dòng thuế chiếm đến 94,5% giá trị XK sản phẩm công nghiệp XK từ Việt Nam sang Nhật Bản sẽ có mức thuế 0%. Trong thời gian 10 năm, 98% số dòng thuế chiếm 98% giá trị thương mại các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam sẽ không bị áp thuế NK.
- Tăng sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. Khi Nhật Bản áp dụng thuế NK 0% đối với sản phẩm dệt may của Việt Nam XK sang Nhật Bản, ngành Dệt may sẽ đạt lợi ích rất lớn, vì chỉ tính riêng XK sản phẩm này đã đạt 700 triệu USD.
- Các DN trong nước có cơ hội tiếp cận các máy móc, thiết bị, nguyên liệu chất lượng cao từ Nhật Bản để phục vụ cho hoạt động sản xuất, đầu tư. Việc giảm thuế trong các nhóm hàng nguyên vật liệu, thiết bị cũng sẽ là động lực quan trọng để các DN Nhật Bản mở rộng đầu tư tại Việt Nam.
- Nguồn vốn đầu tư ODA mà Nhật Bản dành cho Việt Nam ngày càng tăng. Tính đến năm 2012, Nhật Bản có 1113 dự dán đầu tư với tổng số vốn đăng ký hơn 17 tỷ USD, chiếm 10,675 trong tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, các DN Việt Nam ngày càng được tiếp cận với nguồn vốn ODA một cách dễ dàng hơn.
2.4 Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN - Úc-Niu Di-lân
Đối với Việt Nam, Úc và Niu-di-lân là hai đối tác quan trọng, hợp tác song phương giữa Việt Nam với các nước này đang  phát triển tốt đẹp. Úc hiện là đối tác thương mại lớn thứ 10 và là thị trường xuất khẩu lớn thứ năm của Việt Nam. Năm 2010, kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và Úc đạt trên 4,1 tỷ đô la, trong đó kim ngạch xuất khẩu của ta sang Úc đạt 2,7 tỷ đô la. Các mặt hàng xuất khẩu chính của ta sang Úc là dầu thô, thủy sản, hạt điều, gỗ và sản phẩm gỗ, máy móc, thiết bị và phụ tùng v.v. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp, Úc đứng thứ 18 trong số 77 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Về hợp tác phát triển, Việt Nam là nước thứ 5 trong số các nước tiếp nhận viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Úc. Với Niu-di-lân, quan hệ song phương cũng đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ, trong những năm gần đây, thương mại hai chiều đạt tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng gần 30%/năm. Năm 2010, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Niu-di-lân đạt 475 triệu, tăng 48,6% so với năm 2009, trong đó kim ngạch xuất khẩu của ta sang Niu-di-lân đạt gần 123 triệu đô la. Trong lĩnh vực đầu tư, Niu-di-lân đứng thứ 42 trong số 77 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Về viện trợ phát triển (ODA) Niu-di-lân không phải là nước có nguồn ODA lớn, song nguồn ODA cho Việt Nam lại liên tục được tăng trong thời gian qua.
Theo đánh giá chung, Hiệp định AANZFTA sẽ đem lại các lợi ích chính cho ASEAN và Úc, Niu-di-lân như mở cửa thị trường sâu rộng hơn cho các nhà xuất khẩu/ sản xuất trong khu vực, thúc đẩy cắt giảm chi phí sản xuất, tạo cơ hội mở rộng mạng lưới công việc và tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp trong khu vực. Hiệp định sẽ giúp tạo lập môi trường kinh doanh vững chắc, minh bạch và có thể dự đoán được, thông qua đó thúc đẩy hoạt động kinh tế của các bên, các doanh nghiệp. Với thực trạng quan hệ thương mại song phương Việt Nam-Úc cũng nhưng Việt Nam-Niu-di-lân, Hiệp định AANZFTA sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp. Theo tính toán, đối với Úc, các doanh nghiệp của ta sẽ thu được nhiều lợi ích nhất trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may, bột giấy, nông sản. Đối với Niu-di-lân, lợi ích xuất khẩu chính của ta sẽ là hàng dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, máy móc, thiết bị và phụ tùng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, người tiêu dùng Việt Nam sẽ được tiếp cận máy móc, nguyên vật liệu và hàng hóa chất lượng cao, công nghệ tiên tiến với giá cả hợp lý hơn.
2.5 Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Ấn Độ
Tháng 11 năm 2002, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-Ấn Độ lần thứ nhất tại Cam-pu-chia, nguyên thủ các nước ASEAN và Ấn Độ đã thống nhất nhiều biện pháp tăng cường hợp tác nhiều mặt giữa hai bên, trong đó có việc xây dựng Khu vực thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ (AIFTA) trong vòng 10 năm. Ngày 8 tháng 10 năm 2003, Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn Độ đã được nguyên thủ các nước ASEAN và Ấn Độ ký kết tại Bali, In-đô-nê-xia. Hiệp định khung xác định AIFTA là khu vực thương mại tự do toàn diện bao gồm tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế. Trên cơ sở Hiệp định khung này, ASEAN và Ấn Độ đã tiến hành đàm phán Hiệp định thương mại hàng hóa giữa hai bên. Với nỗ lực liên tục từ cả hai phía, tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN - Ấn Độ vào tháng 8 năm 2009, hai bên đã ký kết Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN - Ấn Độ (AITIG); Hiệp định Cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn Độ (DSM); Bản ghi nhớ về Điều 4, Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN - Ấn Độ (AITIG); và Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn Độ.
AITIG là cấu thành quan trọng nhất trong số các Hiệp định/văn kiện nói trên, Hiệp định gồm 24 điều với nội dung chính là thiết lập lộ trình cam kết giảm thuế đã được các nước ASEAN và Ấn Độ thống nhất. Ngoài ra, AITIG cũng quy định về quy tắc xuất xứ, thủ tục và cơ chế giải quyết tranh chấp, các biện pháp phi quan thuế, minh bạch hoá, chính sách, rà soát, sửa đổi cam kết, biện pháp tự vệ, ngoại lệ. Bên cạnh đó, nhân dịp ký kết Hiệp định AITIGA, ngày 25 tháng 10 năm 2009, Ấn Độ cũng đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường đầy đủ (MES).
Theo Hiệp định, lộ trình cắt giảm thuế được chia theo 5 danh mục có tiến độ và mức độ giảm thuế khác nhau, bao gồm Danh mục giảm thuế thông thường (NT), Danh mục nhạy cảm (SL), Danh mục nhạy cảm cao (HSL), Danh mục các sản phẩm đặc biệt và Danh mục loại trừ (EL). Với tư cách là nước thành viên mới của ASEAN (CLMV), ta được cắt giảm thuế theo lộ trình dài hơn 05 năm so với các nước ASEAN và Ấn Độ. Tuy có lộ trình dài hơn nhưng Việt Nam vẫn được hưởng đầy đủ ưu đãi từ cam kết giảm thuế của Ấn Độ và các nước ASEAN khác. Danh mục giảm thuế thông thường (NT) của Việt Nam gồm 80% số dòng thuế sẽ giảm xuống 0% ngày 31/12/2017. Trong đó, 9% tổng số dòng thuế sẽ được linh hoạt giảm xuống 0% từ 31/12/2020 (NT2). Danh mục loại trừ (EL) của ta gồm 485 dòng thuế, là những sản phẩm không thuộc đối tượng cắt giảm thuế. Với diện loại trừ rộng, hầu hết các sản phẩm mà ta có nhu cầu bảo hộ đều được đưa vào Danh mục EL.
Về cam kết của Ấn Độ, Ấn Độ cam kết cắt giảm thuế quan đối với nhiều mặt hàng mà ta có thế mạnh xuất khẩu như hàng may mặc, dày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản, than đá, cao su, sắt thép v.v. Ngoài ra, theo yêu cầu của ta, Ấn Độ nhất trí giảm thuế đối xuống còn 45% đối với cà phê và chè đen, và 50% đối với hạt tiêu vào năm 2018. Đây là các sản phẩm được cho là rất nhạy cảm với Ấn Độ nhưng lại có lợi ích xuất khẩu đặc biệt đối với Việt Nam. Danh mục loại trừ của Ấn Độ gồm 489 dòng thuế, chiếm 5% trị giá kim ngạch thương mại.
2.6 Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
Trong số các nước Việt Nam đang có quan hệ thương mại, Nhật Bản đã và đang là thị trường đem lại nhiều lợi ích nhất về xuất nhập khẩu, đặc biệt, Việt Nam luôn xuất siêu sang quốc gia này. Trong 5 năm trở lại đây, kể từ khi VJEPA có hiệu lực (ngày 01/10/2009),  tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này trung bình đạt mức tăng trưởng hai con số, khoảng 19%/năm.
VJEPA là hiệp định thương mại tự do song phương đầu tiên của Việt Nam kể từ khi gia nhập WTO và là hiệp định thương mại tự do thứ 2 mà Việt Nam và Nhật Bản cùng tham gia- sau Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) được ký kết từ năm 2008. Hiệp định VJEPA có nội dung toàn diện về tự do hoá thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và các hợp tác kinh tế khác giữa hai quốc gia.
Theo nội dung hiệp định, trong vòng 10 năm kể từ khi có hiệu lực, Việt Nam cam kết tự do hoá đối với khoảng 87,66% kim ngạch thương mại và Nhật Bản cam kết tự do hoá đối với 94,53% kim ngạch thương mại. Vào năm cuối của lộ trình giảm thuế, tức là sau 16 năm thực hiện Hiệp định, Việt Nam cam kết tự do hoá đối với 92,95% kim ngạch thương mại.
Thực hiện theo lộ trình đã cam kết, ngày 14/2/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 25/2015/TT-BTC kèm Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam theo VJEPA giai đoạn 2015 - 2019. Theo đó, kể từ ngày 1/4/2015 sẽ có thêm 150 dòng hàng được cắt giảm thuế quan về 0%, nâng tổng số dòng hàng được xóa bỏ thuế kể từ khi VJEPA có hiệu lực lên 3.234 dòng, tương đương 34,09% toàn biểu thuế nhập khẩu.
Thuế quan được cam kết cắt giảm dần theo từng giai đoạn. Các mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử; nguyên phụ liệu dệt may, da giày có lộ trình xóa bỏ thuế quan sớm do đây là các mặt hàng công nghệ cao, linh kiện lắp ráp, nguyên liệu phụ trợ cần nhập khẩu trong nước chưa đáp ứng được, trong đó nhiều mặt hàng cũng có thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) 0%.
Trong các giai đoạn tiếp theo, thuế nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng còn lại cũng sẽ giảm dần để tiến tới đưa về 0%. Với các ưu đãi như vậy, hàng Việt sẽ có cơ hội lớn để thâm nhập thị trường Nhật Bản, đặc biệt là các sản phẩm nông, thủy sản và hàng dệt may.
2.7 Gia nhập WTO
Các cam kết WTO của Việt Nam tương tự như cam kết của các nước gia nhập khác nằm trong khuôn khổ quy định của WTO, đồng thời, phục vụ cho mục tiêu nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa hàng nội địa và nhập khẩu hoặc giữa đầu tư trong và ngoài nước và minh bạch hóa. Các lĩnh vực quan trọng nhất mà Việt Nam đã có cam kết, gồm: mở cửa thị trường thông qua cắt giảm các hàng rào thuế quan, chính sách giá cả minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với các quy định của WTO; giảm hoặc điều chỉnh lại thuế xuất khẩu đối vớí một số hàng hóa không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập; duy trì hỗ trợ nông nghiệp trong nước ở mức không quá 10% giá trị sản lượng; bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp công nghiệp bị cấm từ thời điểm gia nhập; các ưu đãi đầu tư đã cấp trước ngày gia nhập WTO sẽ được bảo lưu trong 5 năm (trừ các ưu đãi xuất khẩu đối với ngành dệt may); tuân thủ Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM) của WTO từ thời điểm gia nhập; áp dụng các loại phí và lệ phí theo quy định của WTO; tuân thủ Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO ngay từ khi gia nhập; tuân thủ Hiệp định về kiểm tra trước khi giao hàng cũng như các Hiệp định có liên quan khác của WTO; duy trì hệ thống thủ tục hải quan thống nhất, minh bạch, đơn giản và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sẽ hoàn toàn hoạt động theo tiêu chí thương mại, nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của DNNN; chấp nhận điều khoản về nền kinh tế phi thị trường trong thời gian tối đa là 12 năm, tham gia vào một số hiệp định tự do hóa theo ngành; cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán, dịch vụ thuế.
Bước vào một sân chơi mới, Việt Nam có rất nhiều cơ hội trong tiến trình hội nhập. Trước hết là, Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn, bao gồm tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm, được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (vì là nước đang phát triển). Hàng hóa của Việt Nam thâm nhập thị trường này không bị phân biệt đối xử, miễn là không vi phạm những quy chế và cam kết đã ký. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP, thì điều này là một trong những yếu tố tích cực bảo đảm tăng trưởng.
Là thành viên của WTO, Việt Nam có cơ hội hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện. Đây là cơ sở quan trọng góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, tạo được hệ thống chính sách minh bạch làm cơ sở thu hút đầu tư nước ngoài, qua đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện CNH,HĐH đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Gia nhập WTO, Việt Nam nâng cao được vị thế trong các mối quan hệ quốc tế, trong việc biểu quyết những vấn đề liên quan đến WTO; đặc biệt, chúng ta có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của quốc gia, của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, còn tạo điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả "đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh”1 và vì một thế giới hoà bình, hợp tác và phát triển.
Gia nhập WTO, Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận những công nghệ tiên tiến, những thị trường tài chính hàng đầu thế giới. Mặt khác, hàng hóa các nước thâm nhập thị trường trong nước đã thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành,  nâng cao sức cạnh tranh...
Bên cạnh những cơ hội của việc gia nhập WTO, Việt Nam cũng gặp không ít những thách thức. Một trong những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt là cạnh tranh, cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn, trên bình diện sâu rộng hơn. Ở đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của Việt Nam với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải mạnh dạn đổi mới công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm; nếu không, việc bị đào thải khỏi thị trường là không tránh khỏi, dẫn đến hậu quả là số lượng lao động thất nghiệp tăng cao. Bên cạnh đó, cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải thực hiện những cam kết, những thỏa thuận đã ký trong những hiệp định thương mại song phương, đa phương, cũng như các quy chế của WTO. Ngoài ra, là các vấn đề mới nảy sinh trong quá trình hội nhập, như: sự phân hóa, chênh lệch khoảng cách giàu, nghèo; vấn đề bảo vệ môi trường; bảo đảm an ninh quốc gia; giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng..., đó là những mầm mống của sự bất ổn về chính trị. Trong khi đó, cơ chế, chính sách về kinh tế – xã hội của ta đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ, thì đây cũng là khó khăn, thách thức không nhỏ trong quá trình hội nhập WTO.
Ngoài ra, việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi Chính phủ phải tích cực nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có kỹ năng để đáp ứng yêu cầu của bộ máy quản lý đa năng và chuyên nghiệp hóa.
Việt Nam thực hiện cam kết gia nhập WTO
Nghĩa vụ chung về minh bạch hóa chính sách đầu tư/kinh doanh
Về việc thực hiện cam kết này, theo quy định tại khoản 5, Điều 29 Luật Đầu tư, căn cứ vào yêu cầu phát triển KT-XH trong từng thời kỳ và phù hợp với các cam kết trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, các điều kiện liên quan đến việc thành lập tổ chức kinh tế, hình thức đầu tư, mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực đối với ĐTNN. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục sửa đổi văn bản pháp luật và lấy ý kiến các đối tượng chịu sự tác động.
Trước khi gia nhập WTO, với mục tiêu tăng tính cạnh tranh, minh bạch hóa, Việt Nam đã ban hành Luật Đấu thầu năm 2005 với các quy định thông thoáng, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử trong lĩnh vực này.
Cam kết về điều kiện và thủ tục cấp phép
Việt Nam đã ban hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các Luật chuyên ngành, trong đó quy định cụ thể điều kiện, trình tự và thủ tục cấp phép, đáp ứng cơ bản yêu cầu thực thi cam kết. Các điều kiện và thủ tục cấp phép ngày càng được sửa đổi, hoàn thiện theo hướng thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.
Cam kết về hình thức đầu tư và điều kiện góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại và các Nghị định hướng dẫn thi hành các luật này đã cho phép NĐTNN được phép hiện diện thương mại theo các hình thức quy định tại Biểu cam kết.
Theo quy định tại Nghị định 108/2006/NĐ-CP, NĐTNN được phép góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam phù hợp với các điều kiện quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ngày 18/06/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN trong các doanh nghiệp Việt Nam. Cũng theo quyết định này, NĐTNN được góp vốn, mua cổ phần với tỷ lệ không hạn chế8 , trừ một số trường hợp đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, các ngành nghề thuộc pháp luật chuyên ngành, thương mại dịch vụ, đa ngành nghề, đa lĩnh vực, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thì được thực hiện theo luật và văn bản chuyên ngành
Cam kết về quyền kinh doanh
Để thực hiện cam kết này, ngày 12/2/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) đã ban hành Quyết định số 10/2007/QĐ-BTM ngày 21/5/2007 công bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa phù hợp với cam kết về vấn đề này. Với việc ban hành các văn bản nêu trên, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ cam kết với WTO về quyền kinh doanh.
Cam kết về trợ cấp dưới hình thức ưu đãi đầu tư
Quy định của Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đáp ứng yêu cầu thực thi cam kết. Luật Đầu tư đã đưa các dự án sản xuất hàng xuất khẩu và sử dụng nhiều nguyên liệu, vật liệu trong nước ra khỏi Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư. Từ ngày 01/07/2006, các ưu đãi đầu tư căn cứ vào các tiêu chí nói trên quy định tại Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước cũng như các văn bản quy định chi tiết các Luật này sẽ tự động chấm dứt hiệu lực thi hành. Chính phủ đã ban hành Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và đã chỉ đạo rà soát, điều chỉnh một số quy định có liên quan đến ưu đãi về thuế, sử dụng đất, tín dụng nhằm thực hiện cam kết.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã chuyển Quỹ Hỗ trợ phát triển thành Ngân hàng Phát triển, điều chỉnh lại mục tiêu và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu, chuyển các loại trợ cấp không được phép áp dụng theo quy định của WTO sang các hình thức khác được áp dụng phổ biến trên thế giới và được WTO thừa nhận.
Cam kết theo Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
Theo Hiệp định VN-US BTA có hiệu lực từ tháng 12/2001, Việt Nam đã cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIM vào thời điểm chậm nhất cho đến khi Việt Nam gia nhập WTO. Vì vậy, hệ thống pháp luật của Việt Nam đã liên tục được hoàn thiện nhằm đáp ứng các cam kết theo Hiệp định TRIM. Luật Đầu tư (điều 8) cũng đã loại bỏ toàn bộ các biện pháp TRIM được áp dụng như những điều kiện bắt buộc để cấp phép đầu tư và cấp ưu đãi đầu tư, bao gồm các yêu cầu bắt buộc xuất khẩu, sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước cũng như các ưu đãi đầu tư gắn với việc thực hiện các yêu cầu này. Việt Nam cũng cam kết không tái áp dụng các yêu cầu nói trên và các biện pháp khác trái với quy định của Hiệp định TRIM.
Cam kết về hoạt động của các khu kinh tế
Cam kết đối với việc thành lập và hoạt động của các khu kinh tế (KKT) đã được thực hiện đầy đủ thông qua các quy định của Luật Đầu tư, Nghị định 108 và Nghị định 29/2008/NĐ-CP về quản lý Nhà nước đối với các KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao và các KKT. Theo đó, doanh nghiệp hoạt động trong các khu nêu trên không nhất thiết phải đáp ứng các điều kiện bắt buộc hay đạt được một tỷ lệ nội địa hóa nhất định, và có thể hưởng ưu đãi đầu tư mà không gắn với các điều kiện phải xuất khẩu hay sử dụng nguyên liệu, hàng hóa trong nước; quan hệ trao đổi hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong và ngoài khu chế xuất được coi là quan hệ xuất nhập khẩu và phải tuân thủ quy định chung về thủ tục xuất, nhập khẩu cũng như các ưu đãi có liên quan. Việt Nam cũng cam kết loại bỏ trợ cấp bị cấm đối với doanh nghiệp đầu tư tại các khu này
Đã 8 năm kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tham gia đầy đủ các định chế kinh tế toàn cầu, mở rộng thị trường hàng hoá dịch vụ, đầu tư quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng bộ hơn các thể chế; đồng thời, cải tiến nền hành chính quốc gia theo hướng hiện đại. Có thể nói rằng, đây là định hướng và chủ trương đúng đắn của Đảng và Chính phủ trong công cuộc đưa Việt Nam từng bước hội nhập với kinh tế quốc tế và đã đem lại những thành quả tích cực: kinh tế phát triển ổn định, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, văn hóa – xã hội phát triển đa dạng; đặc biệt, lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo đã đạt được những kết quả quan trọng, từng bước kết hợp hài hòa hơn với phát triển kinh tế. Mặt khác, chính trị - xã hội ổn định, tiềm lực quốc phòng - an ninh được tăng cường, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.
Khoảng thời gian chưa đủ dài để có thể đánh giá và nhìn nhận đầy đủ tác động của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam, song có thể khẳng định, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, đáng mừng và chủ trương gia nhập WTO là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện tư duy sáng tạo, nhạy bén của Đảng và Nhà nước ta.
Trên thực tế, việc gia nhập WTO không phải là điểm bắt đầu và kết thúc của quá trình hội nhập của Việt Nam. Đồng thời với việc gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã và đang tham gia nhiều hiệp định tự do thương mại khu vực (như AFTA/ASEAN, ASEAN+1 FTA, TPP...).  Điều rõ ràng là, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại, đầu tư và chuyển sang thể chế kinh tế thị trường đang diễn ra ngày càng sâu rộng và không thể đảo ngược. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào kinh tế thế giới.
(Tổng hợp)