Monday, December 14, 2015

CẦN KHÁCH QUAN KHI ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

Nhất quán với quan điểm tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện các chính sách đảm bảo cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được thuận lợi, góp phần làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam; qua đó, bác bỏ những luận điệu, cách đánh giá thiếu khách quan dựa trên những thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở nước ta.
Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo (TN,TG); trong đó, có tôn giáo du nhập từ bên ngoài, như: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo...; có tôn giáo nội sinh, như: Cao Ðài, Hòa Hảo,… Theo thống kê chưa đầy đủ, khoảng 95% dân số Việt Nam có đời sống TN,TG. Hiện nay, Việt Nam có 13 tôn giáo, với gần 24 triệu tín đồ, chiếm khoảng 27% dân số cả nước. Bên cạnh đó, còn có hàng chục tổ chức TN,TG khác đang tồn tại và xin cấp giấy phép hoạt động. Mỗi tôn giáo có một lịch sử du nhập, hình thành, phát triển khác nhau; sự gắn kết với dân tộc và sự nghiệp cách mạng cũng khác nhau, đã tạo nên một bức tranh tôn giáo phong phú, đa dạng. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đến nay, sinh hoạt TN,TG ở Việt Nam sôi động và đang có chiều hướng gia tăng; các tôn giáo đều xác định đường hướng hoạt động tôn giáo và xã hội của mình.
Có thể nói, với số lượng tín đồ, chức sắc đông đảo và ngày càng nhiều tôn giáo được công nhận, cùng với những hoạt động tôn giáo phong phú, đa dạng nói trên là minh chứng sinh động và rõ nét nhất khẳng định:Đảng, Nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều này, trước hết, được thể hiện đầy đủ trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Với việc tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân, Hiến pháp năm 1946 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo trên phạm vi cả nước. Hiến pháp năm 1959 khẳng định rõ hơn “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” (Điều 26). Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và năm 1992 đều quy định “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các TN,TG được pháp luật bảo hộ. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của nhà nước”. Gần đây nhấtHiến pháp năm 2013 (Điều 24) khẳng định rõ: “Mọi người có quyền tự do TN,TG, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do TN,TG. Không ai được xâm phạm tự do TN,TG hoặc lợi dụng TN,TG để vi phạm pháp luật”.
Những nguyên tắc cơ bản đối với tôn giáo trong Hiến pháp được Nhà nước thể chế hóa thành các văn bản pháp luật, như: Sắc lệnh 234/SL, ngày 14-6-1955 của Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành chính sách đối với tôn giáo; Nghị quyết 297/NQ-CP, ngày 11-11-1977 của Chính phủ về “Một số chính sách tôn giáo”; Nghị định 69/NĐ-HĐBT, ngày 20-3-1991 của Hội đồng Bộ trưởng Về hoạt động tôn giáo; Nghị định 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 Về các hoạt động tôn giáo. Đặc biệt, Nghị quyết 25/NQ-TW, ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) Về công tác tôn giáo đã khẳng định: TN,TG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta; đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời nhấn mạnh, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,... Trên cơ sở Nghị quyết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) đã ban hành Pháp lệnh TN,TG; Chính phủ ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP, Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh TN,TG; Nghị định 92/2012/NĐ-CP, Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh TN,TG, Chỉ thị 01/2005/CT-TTg Về một số công tác đối với đạo Tin lành (ngày 04-02-2005),… Để duy trì hoạt động tôn giáo theo đúng quy định, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng bộ máy chuyên trách làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo theo luật định và sự quản lý, điều hành của hệ thống chính trị, nhằm đảm bảo tự do tôn giáo được thực thi theo luật định và phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam.
Từ những quan điểm, chính sách và hệ thống các văn bản pháp luật trên, có thể khẳng định quyền tự do TN,TG ở Việt Nam được Đảng, Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và bảo hộ; từ đó, đã làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Về sinh hoạt tôn giáo: tín đồ các tôn giáo sinh hoạt tôn giáo bình thường tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống của tôn giáo mình. Một số sinh hoạt tôn giáo, nhất là những tôn giáo có phạm vi địa phương trước đây không thực hiện được, những năm gần đây đều được hoạt động; các hoạt động TN,TG ngày càng ổn định theo đúng hiến chương, điều lệ tổ chức, bảo đảm tuân thủ pháp luật. Chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào theo các tôn giáo “đồng hành cùng dân tộc”, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; hướng dẫn, động viên tín đồ tích cực tham gia hoạt động xã hội, từ thiện, thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”,hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, qua đó mở rộng uy tín, ảnh hưởng của tôn giáo mình. Về tổ chức tôn giáo: trước năm 1986, chỉ có 03 tổ chức, đến nay đã có 37 tổ chức và 01 pháp môn tu hành được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Về việc mở trường đào tạo chức sắc: trước đổi mới, chỉ có một số lớp của Phật giáo, Công giáo. Hiện nay, riêng Phật giáo có 04 học viện, 08 trường cao đẳng, 32 trường trung cấp; Công giáo có 07 Đại chủng viện và 01 phân hiệu; Tin lành có 02 Viện Thánh kinh thần học và Học viện Thần học,… Về xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự: trước đổi mới, hầu như không có hoạt động này. Hiện nay, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo (hơn 20.000 cơ sở - chiếm 80%) được sửa chữa, trong đó 1/3 được trùng tu sửa chữa quy mô lớn, đồng thời có khoảng 2.000 cơ sở thờ tự được xây mới. Việc cấp phép xuất bản ấn phẩm tôn giáo không ngừng tăng. Trước đổi mới, gần như không có hoạt động xuất bản kinh sách tôn giáo. Từ khi đổi mới, nhất là từ năm 1999 - khi Nhà Xuất bản Tôn giáo (thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ) thành lập đến nay, đã có khoảng 4.000 đầu sách được xuất bản với hàng chục triệu bản in (riêng kinh thánh gần 01 triệu bản). Ở Việt Nam hiện nay, có 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động,… Các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tạo điều kiện tích cực tham gia các hoạt động quốc tế thông qua việc trao đổi đoàn, tham dự các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế; tham gia các khóa đào tạo tôn giáo và các hoạt động quốc tế rộng rãi. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức trọng thể, thành công ở nước ta thời gian qua được dư luận thế giới đánh giá cao, là minh chứng sinh động về chính sách tự do TN,TG ở Việt Nam. Điển hình là các hoạt động: Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (VESAK) năm 2008 và năm 2014; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI (năm 2009 - 2010); Lễ Khai mạc Năm Thánh của Giáo hội Công giáo (năm 2009); Kỷ niệm 100 năm Tin lành đến Việt Nam (năm 2011), Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á châu lần thứ X (năm 2012),… Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam những năm qua đã làm cho quần chúng tín đồ, chức sắc thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần vào sự ổn định tình hình chính trị và phát triển của đất nước Việt Nam.
Tuy nhiên, do không thấy hoặc cố tình làm ngơ trước kết quả trên, các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam, thông qua chiến lược “Diễn biến hoà bình” đã lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo” để gây bất ổn về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng nhìn nhận tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam và luôn xác định vấn đề “tự do tôn giáo” là nguyên cớ để chống Việt Nam. Để thực hiện mưu đồ đó, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước và đang hậu thuẫn cho một số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả về tinh thần và vật chất, phục vụ cho âm mưu sử dụng tôn giáo làm lực lượng thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” theo kiểu phương Tây nhằm làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Chính sự hậu thuẫn này là nhân tố kích động số phần tử cực đoan, quá khích trong tôn giáo có thái độ thách thức với chính quyền, như: ý đồ thành lập “Ủy ban liên tôn chống cộng”, “Hội đồng liên tôn”, “Hội đồng Nhân quyền”,... lôi kéo tín đồ, tụ tập đông người, xúi giục biểu tình, gây rối, bạo loạn, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp. Các thế lực thù địch, phản động bên ngoài tự nhận là bảo vệ dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo dùng chiêu bài dân chủ, quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, trong đó có Việt Nam; ban hành nhiều đạo luật về vấn đề tôn giáo quy định các chế tài chống lại các nước mà họ cho là “vi phạm tự do tôn giáo”. Hạ Viện Mỹ liên tục thông qua các Dự luật và Nghị quyết liên quan tới tình hình thực thi nhân quyền tại Việt Nam, trong đó có vấn đề tôn giáo, như: Dự luật HR 1587 (năm 2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013), Nghị quyết H.Res.484, Nghị quyết về nhân quyền Việt Nam của Nghị viện châu Âu,… Nhiều chính khách Mỹ, khi tiếp xúc với Việt Nam luôn đặt vấn đề “cải thiện quyền con người”, đòi “tự do tôn giáo”. Quốc hội Mỹ đã ra một số nghị quyết và tổ chức nhiều cuộc điều trần về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Các lần đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ, Việt Nam - EU gần đây, vấn đề tôn giáo luôn được Bộ Ngoại giao Mỹ quan tâm và chất vấn, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ đã khuyến cáo Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC).
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức đẩy mạnh các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước ta, như: lập ra “Chính phủ Đề-ga” lưu vong, “Chính phủ Khơ-me tự do”, kích động khuynh hướng ly khai dân tộc, đòi thành lập các khu tự trị như “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc, “Nhà nước Đề-ga độc lập” ở Tây Nguyên, “Nhà nước Khơ-me - Crôm độc lập” ở Tây Nam Bộ, “Nhà nước Chăm độc lập” ở Nam Trung Bộ. Chúng gắn vấn đề dân tộc với tôn giáo, sử dụng các phần tử xấu trong các dân tộc và tôn giáo chống lại cách mạng. Hầu hết những cuộc gây rối, bạo loạn ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ vừa qua đều gắn với vấn đề tôn giáo, sử dụng tôn giáo làm phương tiện tập hợp lực lượng để chống chính quyền. Đáng lo ngại là xuất hiện hiện tượng tín ngưỡng, tâm linh mới mang nặng mê tín dị đoan, phát triển trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên,... phá vỡ truyền thống văn hóa bản địa và có ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, như: hoạt động của nhóm Dương Văn Mình, Pháp Luân Công,... Một bộ phận chức sắc tôn giáo và giáo dân có tư tưởng cực đoan, bị các thế lực thù địch, bọn phản động lưu vong ở nước ngoài và một số phần tử cơ hội chính trị trong nước cấu kết thực hiện âm mưu dụ dỗ, mua chuộc những người khiếu kiện, kích động họ tham gia biểu tình chống chính quyền; gắn tôn giáo ở Việt Nam với vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” và ra sức đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vu cáo Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền, không có tự do tôn giáo và chúng cho rằng Việt Nam có tình trạng đàn áp và bắt bỏ tù những người hoạt động đấu tranh cho tự do tôn giáo, đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, v.v.
Dựa trên những thông tin không đúng sự thật, bằng cái nhìn sai lệch, định kiến của các thế lực chống phá cách mạng Việt Nam với những luận điệu không mới nêu trên là những việc làm sai trái, không phù hợp với pháp luật Việt Nam và Luật pháp quốc tế. Bởi lẽ, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc thực hiện đầy đủ các quyền con người, không vi phạm “Tuyên ngôn nhân quyền” của thế giới. Việc bảo đảm tự do Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được đặt trong tương quan hài hòa với những yếu tố lịch sử - văn hóa của dân tộc, kết hợp với việc giữ vững an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc. Cũng như mọi dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam có quyền tự do "quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa" như Phần mở đầu Công ước về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (Khoản 1, Ðiều 1) khẳng định. Bảo đảm quyền con người trở thành lý tưởng chung mà các quốc gia, dân tộc cần đạt tới và là nền tảng của tự do, công lý, hòa bình trên thế giới. Là thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc và cộng đồng thế giới, Việt Nam luôn chia sẻ, tôn trọng các yêu cầu và cam kết quốc tế về nhân quyền nói trên. Thực tế lịch sử Việt Nam cũng cho thấy, nhiều tổ chức tôn giáo và hoạt động TN,TG luôn đồng hành cùng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống lại áp bức, bất công, giành lại nền độc lập dân tộc, và ngày nay đang nỗ lực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong tình hình hiện nay, các cơ quan chức năng, nòng cốt là cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở các cấp cần phát huy tốt hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình, chủ động thông tin, hướng dẫn, tuyên truyền để các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong và ngoài nước hiểu và thực hiện đúng chính sách tôn giáo ở Việt Nam; kịp thời vạch trần âm mưu, thủ đoạn, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, góp phần loại bỏ những cách nhìn thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Tác giả: PGS, TS. PHẠM DŨNG, Thứ trưởng Bộ Nội vụ,
Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ

Nguồn: tapchiqptd.vn