Nhất quán với quan điểm
tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang thực
hiện các chính sách đảm bảo cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được thuận lợi,
góp phần làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam; qua đó, bác bỏ
những luận điệu, cách đánh giá thiếu khách quan dựa trên những thông tin sai
lệch về tình hình tôn giáo ở nước ta.
Việt
Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo (TN,TG); trong đó, có tôn giáo du nhập
từ bên ngoài, như: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo...; có tôn giáo nội
sinh, như: Cao Ðài, Hòa Hảo,… Theo thống kê chưa đầy đủ, khoảng 95% dân số Việt
Nam có đời sống TN,TG. Hiện nay, Việt Nam có 13 tôn giáo, với gần 24 triệu tín
đồ, chiếm khoảng 27% dân số cả nước. Bên cạnh đó, còn có hàng chục tổ chức
TN,TG khác đang tồn tại và xin cấp giấy phép hoạt động. Mỗi tôn giáo có một
lịch sử du nhập, hình thành, phát triển khác nhau; sự gắn kết với dân tộc và sự
nghiệp cách mạng cũng khác nhau, đã tạo nên một bức tranh tôn giáo phong phú,
đa dạng. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đến nay, sinh hoạt TN,TG ở Việt Nam
sôi động và đang có chiều hướng gia tăng; các tôn giáo đều xác định đường hướng
hoạt động tôn giáo và xã hội của mình.
Có
thể nói, với số lượng tín đồ, chức sắc đông đảo và ngày càng nhiều tôn giáo
được công nhận, cùng với những hoạt động tôn giáo phong phú, đa dạng nói trên
là minh chứng sinh động và rõ nét nhất khẳng định:Đảng, Nhà nước ta luôn
thực hiện nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều này,
trước hết, được thể hiện đầy đủ trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Với việc
tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân, Hiến pháp năm 1946 đã
tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo trên phạm
vi cả nước. Hiến pháp năm 1959 khẳng định rõ hơn “Công dân nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”
(Điều 26). Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và năm 1992 đều quy
định “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các TN,TG
được pháp luật bảo hộ. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của nhà nước”. Gần đây nhất, Hiến pháp năm 2013 (Điều
24) khẳng định rõ: “Mọi người có quyền tự do TN,TG, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo
hộ quyền tự do TN,TG. Không ai được xâm phạm tự do TN,TG hoặc lợi dụng
TN,TG để vi phạm pháp luật”.
Những
nguyên tắc cơ bản đối với tôn giáo trong Hiến pháp được Nhà nước thể chế hóa
thành các văn bản pháp luật, như: Sắc lệnh 234/SL, ngày 14-6-1955 của Chủ tịch
Hồ Chí Minh ban hành chính sách đối với tôn giáo; Nghị quyết 297/NQ-CP, ngày
11-11-1977 của Chính phủ về “Một số chính sách tôn giáo”; Nghị định
69/NĐ-HĐBT, ngày 20-3-1991 của Hội đồng Bộ trưởng Về hoạt động tôn giáo;
Nghị định 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 Về các hoạt động tôn giáo.
Đặc biệt, Nghị quyết 25/NQ-TW, ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) Về công tác tôn giáo đã khẳng định: TN,TG là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng CNXH ở nước ta; đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời nhấn mạnh, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác
nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; giữ gìn
và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh
những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nội dung cốt lõi của công tác tôn
giáo là công tác vận động quần chúng. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị,... Trên cơ sở Nghị quyết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa
XI) đã ban hành Pháp lệnh TN,TG; Chính phủ ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP,
Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh TN,TG; Nghị định 92/2012/NĐ-CP,
Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh TN,TG, Chỉ thị 01/2005/CT-TTg
Về một số công tác đối với đạo Tin lành (ngày 04-02-2005),… Để duy trì hoạt
động tôn giáo theo đúng quy định, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng bộ máy chuyên
trách làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo theo luật định và sự quản lý,
điều hành của hệ thống chính trị, nhằm đảm bảo tự do tôn giáo được thực thi
theo luật định và phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam.
Từ
những quan điểm, chính sách và hệ thống các văn bản pháp luật trên, có thể
khẳng định quyền tự do TN,TG ở Việt Nam được Đảng, Nhà nước thừa nhận, tôn
trọng và bảo hộ; từ đó, đã làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt
Nam. Về sinh hoạt tôn giáo: tín đồ các tôn giáo sinh hoạt tôn giáo
bình thường tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống của tôn giáo
mình. Một số sinh hoạt tôn giáo, nhất là những tôn giáo có phạm vi địa phương
trước đây không thực hiện được, những năm gần đây đều được hoạt động; các hoạt
động TN,TG ngày càng ổn định theo đúng hiến chương, điều lệ tổ chức, bảo đảm
tuân thủ pháp luật. Chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào
theo các tôn giáo “đồng hành cùng dân tộc”, phát huy giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư; hướng dẫn, động viên tín đồ tích cực tham gia hoạt động xã hội, từ thiện,
thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”,hưởng ứng các phong
trào thi đua yêu nước, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương, qua đó mở rộng uy tín, ảnh hưởng của tôn giáo mình. Về tổ chức
tôn giáo: trước năm 1986, chỉ có 03 tổ chức, đến nay đã có 37 tổ chức và 01
pháp môn tu hành được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Về
việc mở trường đào tạo chức sắc: trước đổi mới, chỉ có một số lớp của
Phật giáo, Công giáo. Hiện nay, riêng Phật giáo có 04 học viện, 08 trường cao
đẳng, 32 trường trung cấp; Công giáo có 07 Đại chủng viện và 01 phân hiệu; Tin
lành có 02 Viện Thánh kinh thần học và Học viện Thần học,… Về xây dựng,
sửa chữa nơi thờ tự: trước đổi mới, hầu như không có hoạt động này.
Hiện nay, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo (hơn 20.000 cơ sở - chiếm
80%) được sửa chữa, trong đó 1/3 được trùng tu sửa chữa quy mô lớn, đồng thời
có khoảng 2.000 cơ sở thờ tự được xây mới. Việc cấp phép xuất bản ấn
phẩm tôn giáo không ngừng tăng. Trước đổi mới, gần như không có hoạt động
xuất bản kinh sách tôn giáo. Từ khi đổi mới, nhất là từ năm 1999 - khi Nhà Xuất
bản Tôn giáo (thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ) thành lập đến nay, đã có khoảng
4.000 đầu sách được xuất bản với hàng chục triệu bản in (riêng kinh thánh gần
01 triệu bản). Ở Việt Nam hiện nay, có 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn
giáo đang hoạt động,… Các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tạo điều kiện
tích cực tham gia các hoạt động quốc tế thông qua việc trao đổi
đoàn, tham dự các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế; tham gia các khóa đào
tạo tôn giáo và các hoạt động quốc tế rộng rãi. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc
tế lớn được tổ chức trọng thể, thành công ở nước ta thời gian qua được dư luận
thế giới đánh giá cao, là minh chứng sinh động về chính sách tự do TN,TG ở Việt
Nam. Điển hình là các hoạt động: Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (VESAK) năm 2008
và năm 2014; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI (năm 2009 - 2010);
Lễ Khai mạc Năm Thánh của Giáo hội Công giáo (năm 2009); Kỷ niệm 100 năm Tin
lành đến Việt Nam (năm 2011), Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á châu lần thứ X
(năm 2012),… Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam những
năm qua đã làm cho quần chúng tín đồ, chức sắc thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, điều hành của Nhà nước cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần
vào sự ổn định tình hình chính trị và phát triển của đất nước Việt Nam.
Tuy
nhiên, do không thấy hoặc cố tình làm ngơ trước kết quả trên, các thế lực thù
địch với cách mạng Việt Nam, thông qua chiến lược “Diễn biến hoà bình” đã lợi
dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo” để gây bất ổn về an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng nhìn nhận tôn giáo ở Việt
Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam
và luôn xác định vấn đề “tự do tôn giáo” là nguyên cớ để chống Việt Nam. Để
thực hiện mưu đồ đó, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của
Nhà nước và đang hậu thuẫn cho một số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả
về tinh thần và vật chất, phục vụ cho âm mưu sử dụng tôn giáo làm lực lượng
thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” theo kiểu phương Tây nhằm làm thay đổi
thể chế chính trị ở Việt Nam. Chính sự hậu thuẫn này là nhân tố kích động số
phần tử cực đoan, quá khích trong tôn giáo có thái độ thách thức với chính
quyền, như: ý đồ thành lập “Ủy ban liên tôn chống cộng”, “Hội đồng liên tôn”,
“Hội đồng Nhân quyền”,... lôi kéo tín đồ, tụ tập đông người, xúi giục biểu tình,
gây rối, bạo loạn, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp. Các thế lực thù địch, phản
động bên ngoài tự nhận là bảo vệ dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo dùng chiêu
bài dân chủ, quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước
khác, trong đó có Việt Nam; ban hành nhiều đạo luật về vấn đề tôn giáo quy định
các chế tài chống lại các nước mà họ cho là “vi phạm tự do tôn giáo”. Hạ Viện
Mỹ liên tục thông qua các Dự luật và Nghị quyết liên quan tới tình hình thực
thi nhân quyền tại Việt Nam, trong đó có vấn đề tôn giáo, như: Dự luật HR 1587
(năm 2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013), Nghị
quyết H.Res.484, Nghị quyết về nhân quyền Việt Nam của Nghị viện châu Âu,…
Nhiều chính khách Mỹ, khi tiếp xúc với Việt Nam luôn đặt vấn đề “cải thiện
quyền con người”, đòi “tự do tôn giáo”. Quốc hội Mỹ đã ra một số nghị quyết và
tổ chức nhiều cuộc điều trần về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Các lần đối
thoại nhân quyền Việt - Mỹ, Việt Nam - EU gần đây, vấn đề tôn giáo luôn được
Bộ Ngoại giao Mỹ quan tâm và chất vấn, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế
Mỹ đã khuyến cáo Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách các
nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC).
Hiện
nay, các thế lực thù địch đang ra sức đẩy mạnh các hoạt động lợi dụng tôn giáo
để chống phá nhà nước ta, như: lập ra “Chính phủ Đề-ga” lưu vong, “Chính phủ
Khơ-me tự do”, kích động khuynh hướng ly khai dân tộc, đòi thành lập các khu tự
trị như “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc, “Nhà nước Đề-ga độc lập” ở Tây Nguyên, “Nhà
nước Khơ-me - Crôm độc lập” ở Tây Nam Bộ, “Nhà nước Chăm độc lập” ở Nam Trung
Bộ. Chúng gắn vấn đề dân tộc với tôn giáo, sử dụng các phần tử xấu trong các
dân tộc và tôn giáo chống lại cách mạng. Hầu hết những cuộc gây rối, bạo loạn ở
các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ vừa qua đều gắn với vấn đề tôn giáo,
sử dụng tôn giáo làm phương tiện tập hợp lực lượng để chống chính quyền. Đáng
lo ngại là xuất hiện hiện tượng tín ngưỡng, tâm linh mới mang nặng mê tín dị
đoan, phát triển trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây
Bắc, Tây Nguyên,... phá vỡ truyền thống văn hóa bản địa và có ảnh
hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, như: hoạt động của
nhóm Dương Văn Mình, Pháp Luân Công,... Một bộ phận chức sắc tôn giáo và giáo
dân có tư tưởng cực đoan, bị các thế lực thù địch, bọn phản động lưu vong ở
nước ngoài và một số phần tử cơ hội chính trị trong nước cấu kết thực hiện âm
mưu dụ dỗ, mua chuộc những người khiếu kiện, kích động họ tham gia biểu tình
chống chính quyền; gắn tôn giáo ở Việt Nam với vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”
và ra sức đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vu cáo Việt Nam không có dân
chủ, nhân quyền, không có tự do tôn giáo và chúng cho rằng Việt Nam có tình
trạng đàn áp và bắt bỏ tù những người hoạt động đấu tranh cho tự do tôn giáo,
đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, v.v.
Dựa
trên những thông tin không đúng sự thật, bằng cái nhìn sai lệch, định kiến của
các thế lực chống phá cách mạng Việt Nam với những luận điệu không mới nêu trên
là những việc làm sai trái, không phù hợp với pháp luật Việt Nam và Luật pháp
quốc tế. Bởi lẽ, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc thực hiện đầy đủ
các quyền con người, không vi phạm “Tuyên ngôn nhân quyền” của thế giới. Việc
bảo đảm tự do Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được đặt trong tương quan hài hòa
với những yếu tố lịch sử - văn hóa của dân tộc, kết hợp với việc giữ vững an
ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc. Cũng như mọi dân tộc khác trên thế giới, dân
tộc Việt Nam có quyền tự do "quyết định thể chế chính trị của mình
và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa" như Phần mở đầu
Công ước về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (Khoản 1, Ðiều 1)
khẳng định. Bảo đảm quyền con người trở thành lý tưởng chung mà các quốc gia,
dân tộc cần đạt tới và là nền tảng của tự do, công lý, hòa bình trên thế
giới. Là thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc và cộng đồng thế
giới, Việt Nam luôn chia sẻ, tôn trọng các yêu cầu và cam kết quốc tế về nhân
quyền nói trên. Thực tế lịch sử Việt Nam cũng cho thấy, nhiều tổ chức tôn giáo
và hoạt động TN,TG luôn đồng hành cùng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống lại
áp bức, bất công, giành lại nền độc lập dân tộc, và ngày nay đang nỗ lực xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong
tình hình hiện nay, các cơ quan chức năng, nòng cốt là cơ quan quản lý nhà nước
về tôn giáo ở các cấp cần phát huy tốt hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình,
chủ động thông tin, hướng dẫn, tuyên truyền để các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở
trong và ngoài nước hiểu và thực hiện đúng chính sách tôn giáo ở Việt Nam; kịp
thời vạch trần âm mưu, thủ đoạn, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch,
góp phần loại bỏ những cách nhìn thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt
Nam.
Tác giả: PGS,
TS. PHẠM DŨNG, Thứ trưởng Bộ Nội vụ,
Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ
Nguồn: tapchiqptd.vn