Sunday, December 27, 2015

VỀ VÙNG LƯƠNG GIÁO

          Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và có nhiều loại hình tín ngưỡng. Lịch sử đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tín đồ các tôn giáo đều có những đóng góp to lớn, quan trọng. Do đó Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định, đoàn kết tôn giáo là nguồn lực nội sinh, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là chính sách nhất quán xuyên suốt Đảng, Nhà nước ta, được cụ thể hóa bằng pháp luật và bảo đảm trên thực tế, vì đây là một trong những quyền cơ bản của công dân.

Wednesday, December 16, 2015

TỪ HẢI NGOẠI NGHĨ VỀ CÁC "NHÀ DÂN CHỦ"

Nhiều năm trở lại đây, một số tổ chức và cá nhân ở nước ngoài, nấp dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền", thường đưa ra nhận xét, đánh giá xuyên tạc vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Đáng tiếc là việc làm của các tổ chức, cá nhân này lại được một số nhân vật tự nhận là "nhà dân chủ" ở trong nước phụ họa theo. Bức xúc trước vấn đề này, từ Hoa Kỳ, tác giả Trần Mai gửi tới Báo Nhân Dân bài “Từ hải ngoại nghĩ về các "nhà dân chủ"”. Xin giới thiệu cùng bạn đọc:
Tôi muốn bàn về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam khi một số tổ chức phản động cực đoan của người Việt ở nước ngoài và một số phần tử cơ hội ở trong nước được sự "bảo kê" của một số cơ quan truyền thông, một số tổ chức nhân danh "dân chủ, nhân quyền" hỗ trợ tài chính qua các loại "giải thưởng"; từ đó xuyên tạc, bóp méo sự thật, rồi tung hô nhau là "nhà dân chủ" nhằm dễ bề lôi kéo dư luận khi bị pháp luật Việt Nam trừng phạt. Trước đây, tôi từng tranh luận với một người bạn là nhà báo tại Hoa Kỳ về đề tài dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Khi đó, người bạn tôi đang bị cái vòng "kim cô" chống cộng cực đoan (CCCÐ) siết chặt, dù các luận điểm anh đưa ra đều bị bẻ gãy, nhưng anh vẫn "không phục". Tôi nói với anh: "Theo tôi, khi viết bằng tất cả niềm tin vào sự thật thì chắc chắn không ai buộc tội mình được. Không chỉ nhà báo mới có cơ hội tiếp cận sự thật, nhà báo cũng không hẳn phải là người duy nhất vạch ra chân lý. Nhưng lương tâm của người cầm bút là biết hướng dư luận đi tới chân lý, sự thật". Anh bạn tôi lắng nghe, không nói gì.
Tuy sinh sống ở nước ngoài, nhưng là người con của dân tộc Việt Nam nên tôi biết, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đôi khi có cá nhân, tổ chức đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, thậm chí có người cam tâm phản bội. Gần đây, có người vì bất mãn, hoặc mờ mắt khi được các thế lực thù địch tâng bốc, hứa hẹn, đã bị các tổ chức xấu ở hải ngoại lợi dụng để chống lại Nhà nước Việt Nam, v.v. Tiếc thay, trong đó lại có một vài người được coi là trí thức. Từ việc họ làm, từ lời lẽ họ đưa ra, tôi thấy dường như họ đã trút bỏ những thứ mà gần như cả cuộc đời họ theo đuổi, rồi sám hối về một số việc họ cho là "lỗi lầm". Trong đó có người như là con kỳ nhông, sẵn sàng đổi màu để trở thành "nhà dân chủ", để được các thế lực thù địch ngợi ca, đưa ảnh lên in-tơ-nét như là"anh hùng", được nhắc tới tên trong thông báo hay lời kêu gọi của các tổ chức chưa bao giờ có thiện chí với Việt Nam. Theo dõi trên các phương tiện truyền thông ở hải ngoại, những người Việt luôn hướng về Tổ quốc như chúng tôi đã thấy họ chỉ là những con người cơ hội. Ðối với họ, quá khứ đau thương của dân tộc đã không còn ý nghĩa, mà tương lai cuộc "đấu tranh" của họ thì lại mơ hồ và ảo vọng; nếu thời thế đổi thay, có khi họ lại biến hình thành người khác!
Trước tiên, xin điểm qua mấy "nhà dân chủ, nhân quyền" ở hải ngoại, đó là người mà dân thường như chúng tôi vẫn gọi là các ông bà "mặt trơ trán bóng". Họ là người có bề dày "thành tích bất hảo", thành thạo trong việc vu khống, chống phá Nhà nước Việt Nam, trong đó có người mấy chục năm nay chỉ làm cái việc xấu xa là lập ra các "tổ chức ma" để lừa bịp và quyên góp tiền bạc của người Việt không có điều kiện tìm hiểu hiện tình đất nước. Có thể kể ra Nguyễn Ngọc Bích, Võ Văn Ái, Nguyễn Tường Bách, rồi Ðoàn Viết Hoạt, Nguyễn Minh Cần, Nguyễn Hữu Lễ, Phạm Ngọc Lũy, Nguyễn Quốc Quân,... Những người này đã hợp bè kết đảng với nhau, tự xưng là "mạng lưới nhân quyền Việt Nam". Họ tiến hành vô số hoạt động CCCÐ, hằng năm trao "giải thưởng nhân quyền" cho các phần tử chống đối ở quốc nội. Các giải này được trao theo kiểu "anh trước em sau", người nào rồi cũng có. Người nhận giải là các nhân vật có hành vi vi phạm pháp luật đã bị Tòa án Nhân dân tuyên án, như Trần Anh Kim, Ðỗ Nam Hải, Nguyễn Chính Kết, Nguyễn Văn Ðài, Lê Thị Công Nhân, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Văn Lý, Thích Quảng Ðộ, Nguyễn Ðan Quế, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần,... Không phải bà con ở hải ngoại không biết họ là ai, chúng tôi biết họ chỉ là mấy "nhà dân chủ cuội" và đã có rất nhiều ý kiến vạch rõ bản chất của họ, cùng những lời phê phán họ trên các phương tiện truyền thông ở hải ngoại.
Theo chỗ tôi được biết, hiện nay trên thế giới có hai cách tiếp cận quyền con người: Thứ nhất, nhân quyền là quyền tự nhiên, không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa, ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào và không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người; Thứ hai, quyền con người không phải là bẩm sinh và vốn có, mà phải do nhà nước quy định trong pháp luật; và đây là quan điểm đã được phần lớn các quốc gia trên thế giới vận dụng trong khi thực thi quyền con người. Ðiều này là đúng đắn, cần thiết, bởi đối với các chế độ chính trị - xã hội đề cao quyền con người, ngoài yêu cầu về tính văn hóa, mà trước hết và trực tiếp là các chuẩn mực đạo đức, việc mỗi người thực thi quyền của mình như thế nào để không làm ảnh hưởng tới quyền của người khác, việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, việc hạn chế các cơ quan hành pháp, cá nhân có trách nhiệm có thể vi phạm quyền con người,... phải được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của pháp luật. Về vấn đề này, ngài Sérgio Vieira De Mello, nguyên Cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc, người đã tử nạn khi đang làm việc tại Iraq năm 2003, từng phát biểu: "Văn hóa nhân quyền có được sức mạnh lớn nhất từ những mong muốn và hiểu biết của mỗi cá nhân. Trách nhiệm bảo vệ nhân quyền thuộc về các nhà nước. Nhưng chính những hiểu biết, tôn trọng, mong muốn về nhân quyền của mỗi cá nhân là điều mang lại kết cấu và sức bật hằng ngày cho nhân quyền".
Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, nhân quyền luôn là vấn đề được các chế độ chính trị - xã hội quan tâm, song không phải chế độ chính trị - xã hội nào cũng thật sự quan tâm bảo đảm về nhân quyền. Các "nhà dân chủ" trong nước thử nhìn sang những nước khác, bên một số ít quốc gia ở Bắc Âu có sự quan tâm nhất định, thì tại nhiều nước khác, việc vi phạm nhân quyền, chà đạp lên quyền con người,... vẫn khá phổ biến. Ngay tại Mỹ, nơi chúng tôi đang sống, nhân quyền nhiều khi cũng chỉ là câu khẩu hiệu, bởi tình trạng phân biệt chủng tộc, tình trạng bạo lực trong trường học, việc xả súng bừa bãi,... vẫn tồn tại trong thời gian dài. Chẳng hạn theo số liệu của FBI, mỗi năm ở Mỹ có tới 30 nghìn người bị chết do các vụ bạo lực liên quan đến súng. Các "nhà dân chủ" ở quốc nội nên hiểu rằng, quốc gia có mô hình xã hội mà họ muốn mô phỏng và xây dựng ở Việt Nam, lúc nào cũng sử dụng trò chơi hai mặt, họ chỉ bảo vệ quyền lợi của họ mà thôi. Hình như các"nhà dân chủ" ở quốc nội không thật sự hiểu được những lời ban tặng từ hải ngoại, để rồi biến mình thành con rối đáng thương. Vâng, nếu đất nước không có dân chủ và nhân quyền, người gốc Việt từ khắp năm châu đã không trở về nước làm ăn, sinh sống. Bản thân tôi cũng vậy, vì công việc và gia đình nên tôi không thể như người khác, nhưng hằng năm tôi vẫn trở về, và được tận mắt chứng kiến bao sự đổi thay trên quê hương, đất nước. Ðể nhìn rõ tính khách quan của vấn đề, tôi dẫn lại kết quả nghiên cứu của Viện Phát triển quốc tế Harvard thuộc Ðại học Harvard (Hoa Kỳ) sau khi khảo sát Việt Nam, nhà nghiên cứu Dam Fforde đánh giá:"Việt Nam có được những lợi thế chính trị quan trọng. Lên nắm quyền qua chiến tranh và cách mạng chứ không phải do lực lượng bên ngoài áp đặt, năm 1975, Ðảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu một hệ thống chính trị nhất thể với một quyền lực và tính hợp pháp không bị ai thách thức. Sau ba thập kỷ đấu tranh, Ðảng đã loại mọi đối thủ và khôi phục Việt Nam thành một nước độc lập và thống nhất. Ban lãnh đạo của Ðảng nằm trong số ổn định và thật sự nhất trí trong thế giới cộng sản, đảng viên của Ðảng bao gồm một phần lớn những người tận tụy và yêu nước nhất ở Việt Nam. Hơn nữa, đó là một đảng mà sự tồn vong và thắng lợi cuối cùng đã dựa vào việc huy động sự ủng hộ của quần chúng".
Ðương nhiên, chúng tôi cũng hiểu rõ những thách thức mà Ðảng Cộng sản Việt Nam có thể gặp phải trong vai trò là đảng cầm quyền. Một vấn đề khách quan luôn có thể đặt ra với bất kỳ đảng cầm quyền nào, là khả năng bị tha hóa bởi lạm quyền và quan liêu hóa. Ở hải ngoại, theo dõi Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), gần đây là Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI), chúng tôi thấy Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục chứng tỏ sự nghiêm túc khi nhìn thẳng vào sự thật, không che giấu khuyết điểm và hạn chế, từ đó đề ra các giải pháp cấp bách và cơ bản để khắc phục, đưa đất nước đi lên. Từ đầu năm đến nay, chúng tôi thấy rất rõ sự quan tâm, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước khi Ðảng Cộng sản Việt Nam quyết tâm tiến hành các giải pháp cấp bách, cơ bản để xây dựng, chỉnh đốn Ðảng. Nhiều hành động công khai và minh bạch đã được tiến hành, thể hiện quyết tâm lớn trong chống tiêu cực, tham nhũng, hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Ðó là thông điệp rõ ràng, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ vì quyền lực và lợi ích của nhân dân, vì một nền dân chủ rộng rãi cho mọi người. Chúng tôi hiểu, việc một số tổ chức, cá nhân đặt vấn đề Việt Nam vi phạm quyền con người và đàn áp người bất đồng chính kiến, cần thực hiện "tam quyền phân lập",... thực chất là vu khống, xuyên tạc, thiếu thiện chí, không phản ánh đúng đắn tình hình trong nước thời gian qua. Trước sự thật không thể bác bỏ ấy, chúng tôi nghĩ, nếu các "nhà dân chủ" ở trong nước thực tâm mong muốn xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước được giữ vững, mọi người đều được tạo điều kiện để phát triển,... thì nên làm những việc ích nước, lợi dân. Hãy cống hiến và cùng toàn dân xây dựng Tổ quốc Việt Nam hùng cường. Hãy là người Việt Nam chân chính để chúng tôi có thể học hỏi và noi theo./. 

Tác giả: TRẦN MAI (Hoa Kỳ)
Nguồn: nhandan.com.vn 

SỰ LỢI DỤNG "DÂN CHỦ", "NHÂN QUYỀN", "DÂN TỘC", "TÔN GIÁO"

Đảng luôn khẳng định: “phải kiên định đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện có nguyên tắc và sáng tạo; trong quá trình đổi mới phải luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng”.
Trong điều kiện hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá quyết liệt sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta, đòi đa nguyên đa đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng và nhân dân Việt Nam không chấp nhận cơ chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Bởi, nếu thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu trỗi dậy ngay lập tức một cách hợp pháp của các lực lượng phản động trong nước và từ nước ngoài trở về chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ. Các lực lựợng thù địch thực hiện với nhiều hình thức, kể cả thành lập ra các tổ chức hoạt động hợp pháp. Nhân dân ta đã chiến đấu với biết bao hy sinh gian khổ chống kẻ thù xâm lược và bọn phản động tai sai để giành độc lập, hòa bình thống nhất cho Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh với những thành công đáng ghi nhận trên nhiều lĩnh vực, thì không lẽ gì nhân dân ta lại chấp nhận cho những thế lực phản động trong nước có sự chỉ đạo của các thế lực bên ngoài chống lại nhân dân ta. Vì như vậy, chúng ta lại phải đấu tranh gian khổ, hy sinh mất mát thêm một lần nữa. Nhân dân Việt Nam vốn yêu chuộng hòa bình, nhưng các thế lực thù địch trong và ngoài nước chưa bao giờ để cho ta bình yên xây dựng lại đất nước sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá. Các thế lực thù địch, phản động đang hằng ngày, hằng giờ bằng tất cả các thủ đoạn tinh vi, sử dụng các phương tiện hiện đại chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta trên nhiều lĩch vực kinh tế, ngoại giao, tư tưởng, văn hoá và cả những thứ phi văn hoá, bằng những ngôn ngữ chửi tục tầm thường, nói xấu, vu khống hoặc chứng minh một cách ngây ngô những chi tiết lịch sử đơn lẻ; hoặc bôi đen những hạn chế, sai lầm của một số tổ chức, cá nhân. Gọi những kẻ cố tình phá hoại là kẻ thù của dân tộc là hoàn toàn chính xác vì chúng luôn ráo riết chống phá dân tộc Việt Nam, trong khi đa số người Việt Nam đang sinh sống trong và ngoài nước đang ngày đêm cùng với cả dân tộc, cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức học tập, lao động, sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực để xây dựng quê hương đất nước, bằng những cố gắng vượt bậc không mệt mỏi. Trong khi đó, một bộ phận lại dã tâm cố tình phá hoại sự nghiệp xây dựng đất nước vì tiền, vì quyền lực cá nhân, vì lòng vị kỷ với tất cả những “giá trị” thực dụng cục bộ cả thù hận và mưu đồ chính trị đen tối. Không ít cá nhân cay cú vì không được đề bạt, không được thăng chức quay ngược lại nói xấu Đảng, vu khống lãnh đạo, viết bài xuyên tạc, phản ánh sai sự thật để tác động tư tưởng, làm hoang mang dao động cán bộ, đảng viên và nhân dân; tự cho mình là người biết tất cả, ngay cả những “thâm cung bí sử” của cá nhân và tổ chức. Đó là sự bịp bợm, những trò đùa để kiếm tiền và được đồng bọn hậu thuẫn “tung hô vạn tế”. Lịch sử nhân loại và dân tộc sẽ không bao giờ vinh danh cho những kẻ cá nhân chủ nghĩa và phản bội Tổ quốc.
Có người lập luận rằng phải đa đảng mới có dân chủ. Thực tế dân chủ hay không dân chủ không phải phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng. Dân chủ hay không dân chủ xét cho cùng cũng chỉ vì quyền lợi và quyền lực của ít người hay đa số người mà thôi. Vấn đề là thực hiện quyền lực và quyền lợi đó có thật sự cho đa số nhân dân hay không? Chính quần chúng nhân dân mới là người quyết định lựa chọn, đánh giá thậm chí từ bỏ nếu như thấy chế độ đó không thật sự dân chủ cho đa số. Đảng ta không có mục đích nào khác là phấn đấu cho quyền dân chủ - quyền dân chủ thực sự của tất cả các tầng lớp, giai cấp trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các chính sách của Đảng, Nhà nước đều mang bản chất nhân đạo, dân chủ, vì lợi ích chính đáng của dân tộc, vì con người; thực hiện chính sách xã hội là minh chứng cho việc thực hiện dân chủ.
Đảng và nhân dân ta dám nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những cá nhân, tổ chức tham nhũng; vạch trần những biểu hiện vi phạm dân chủ, quan liêu của cán bộ, đảng viên xảy ra ở nơi này, nơi khác để xử lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và lợi ích của quốc gia. Việc xây dựng một cơ chế thể hiện dân chủ thật sự trên nhiều lĩnh vực là vấn đề không hề giản đơn, nhưng Quốc hội, Chính phủ và các địa phương đã và đang nỗ lực xây dựng, từng bước hoàn thiện thể chế hoá bằng pháp luật và những qui định cụ thể đảm bảo thực thi quyền dân chủ thực sự của nhân dân. Điều này thể hiện rõ trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 (sửa đổi). Quốc hội đã ban hành nhiều luật trên hầu hết các lĩnh vực thể hiện quyền dân chủ của nhân dân. Trước khi luật ban hành luôn luôn lấy ý kiến trong nhân dân thông qua tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; trong các dự thảo luật luôn tranh thủ tất cả ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân trên các diễn đàn khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng.
Sự thật hiện nay, mọi công dân Việt Nam thuộc tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật, được làm những gì pháp luật không cấm, và được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền công dân của mình trước pháp luật; bầu không khí dân chủ trong báo chí, văn nghệ và các cơ quan ngôn luận luôn được phát huy cao độ. Và như vậy, những người thiện chí vì hoà bình, ổn định, tiến bộ xã hội trong và ngoài nước không thể không thừa nhận vấn đề dân chủ ở Việt Nam - nền dân chủ thật sự của nhân dân. Đương nhiên, trong bất cứ thể chế chính trị xã hội nào cũng có hiện tượng vi phạm dân chủ của nhân dân, ở nơi này nơi khác trong hệ thống chính trị. Các nước đa nguyên, đa đảng trên thế giới có thật sự dân chủ không? Hay là nội bộ tranh giành quyền lực chính trị giữa các đảng chính trị? Điều này ai biết xem thời sự trên truyền hình sẽ rõ.
Cả dân tộc Việt Nam biết đoàn kết để đưa đất nước phát triển, mỗi người cần phải có thiện chí. Theo đó, các cơ quan nhà nước và người dân cần phát hiện, phê phán và tìm ra biện pháp hữu hiệu để giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội một cách thoả đáng hợp tình, thấu lý. Do đó, sự vi phạm dân chủ hoàn toàn khác lạ với lợi dụng dân chủ để lấy cớ này, cớ nọ chống phá chính quyền, chống Đảng – đó là những phần tử cơ hội chính trị, phản động được dung túng từ những thế lực phản động bên ngoài, lẫn bên trong; là sự lôi kéo, mua chuộc về vật chất kinh tế, tác động tư tưởng, mê hoặc về văn hoá và những lời hứa ảo tưởng về quyền lực chính trị; là những phần tử cực đoan, cục bộ, bất mãn, cơ hội chủ nghĩa nhằm gây rối, phá hoại, vu cáo chính quyền và chế độ XHCN Việt Nam. Tất cả xuất phát từ những động cơ vụ lợi, phản động của cá nhân hoặc một nhóm người mà không vì lợi ích chung của cả dân tộc. Và như thế là vi phạm pháp luật Việt Nam, buộc phải xử lý theo đúng pháp luật. Pháp luật của một đất nước dân chủ luôn luôn bảo vệ quyền lợi của nhân dân; chống phá cách mạng tức là vi phạm dân chủ của đa số quần chúng nhân dân cần phải được nghiêm trị và trừng trị cho thích đáng. Một dân tộc, một quốc gia không thể vô chính phủ, dân chủ trên cơ sở tập trung, có kỷ cương, kỷ luật. Thiếu trách nhiệm công dân, thiếu kỷ cương, vô kỷ luật, không tuân thủ những qui định bắt buộc mà chỉ hành động cá nhân, ăn theo, nghe theo sự xúi giục người khác là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền dân chủ của đa số công dân. Nó đối lập hoàn toàn với dân chủ thật sự. Việc đội lốt “thầy tu” hay lợi dụng những xung đột, bất đồng quan điểm hoặc lợi ích cá nhân chưa được giải quyết thoả đáng để biểu tình vô tổ chức, lôi kéo xúi giục và tham gia khiếu kiện đông người; tuyên truyền phản cách mạng, hô khẩu hiệu, đòi yêu sách không chính đáng; chống chính quyền, chống người thi hành công vụ là hành động có thể bộc phát, nhưng đó là sự lợi dụng “nhân quyền”, “dân chủ”, một kiểu tự do vô chính phủ đi ngược lại với lợi ích chính đáng của đa số nhân dân, nhằm vụ lợi cá nhân hoặc kinh tế hoặc là chính trị.
Có thể nói, mọi sự lợi dụng thiếu động cơ lành mạnh xuất phát từ những mưu đồ đen tối, chỉ có thể hiểu như là sự thực dụng bằng mọi thủ đoạn dù là đê tiện, thấp hèn nhất, sẵn sàng chà đạp danh dự, lương tâm, nhân phẩm, đạo đức của bản thân và người khác để đạt mục đích - lối sống đó là đặc trưng của một dân tộc từ phương xa nào đó chứ không phải truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Trên thế giới chắc chắn không một quốc gia, lãnh thổ, bộ tộc hay tôn giáo nào lại không có những luật lệ, qui định và giáo lý riêng, thì không lý do gì phải buộc các quốc gia này phải phục tùng theo những quy định mang tính chủ quan và thiếu thực tiễn của quốc gia khác. Theo đó, không ai có quyền cấm các hoạt động tự do của mỗi cá nhân, song nó phải đảm bảo theo những qui định bắt buộc của pháp luật hay là giáo lý của một quốc gia hay tôn giáo nào đó là tất yếu.
Ở Việt Nam, mọi công dân có quyền theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo, tự do tính ngưỡng và tự do không tín ngưỡng, sống tốt đời đẹp đạo; công dân Việt Nam sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Bản thân tôn giáo là thành tố của kiến trúc thượng tầng cùng với pháp luật và đạo đức, do đó không có siêu tôn giáo phi pháp luật, cũng như không có tự do dân chủ vô chính phủ. Tín đồ nào lợi dụng tôn giáo mình để gây rối là lợi dụng cái tổng thể của hàng triệu tín đồ trên thế giới để áp đặt cho cái chi tiết, bộ phận; lợi dụng nhân quyền để gây rối, yêu sách là lợi dụng quyền thiêng liêng của nhân loại cho cái cá nhân; lợi dụng dân chủ để phá rối là lợi dụng tính nhân đạo của pháp luật cho cái vị kỷ, thấp hèn hoặc mưu đồ chính trị đen tối. Lợi dụng kinh tế, dùng tiền, vật chất lôi kéo phần tử phản động, những người nhẹ dạ; đồng thời chê bai chính quyền không biết tổ chức kinh tế, quản lý là mưu đồ chính trị lộ rõ và là biểu hiện của đạo đức giả, ngoài thì ra vẻ chăm lo thực chất bên trong chứa đựng ý đồ thâm độc và sự lợi dụng.
Các thế lực thù địch lợi dụng tất cả những vấn đề trên nhằm chống phá cách mạng Việt Nam trước mắt lẫn lâu dài.
Các thế lực thù địch lợi dụng của các chiêu bài “dân chủ”, “dân quyền”, “tôn giáo” “dân tộc chống sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. Bởi đây là những yếu tố nhạy cảm liên quan trực tiếp đến sự tồn tại của nhân loại được Liên hiệp quốc và cộng đồng quốc tế thừa nhận thông qua các công ước quốc tế mà Việt Nam và các nước đã ký và đương nhiên đó là những yếu tố mang tính hợp pháp quốc tế. Chiêu bài này không mới nhưng vẫn được sử dụng bằng cách kết hợp với hai dạng thức chủ yếu chống phá về tư tưởng và kinh tế, tức là cái đầu và cái dạ dày xem ra có tác dụng trực tiếp hơn – đó chính là mặt trận tư tưởng, văn hoá và kinh tế. Những bài viết trên các diễn đàn toàn cầu dăng tải trên internet và các phương tiện thông tin đại chúng đang ngày đêm công kích trực tiếp, công khai chống Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó không chỉ là vấn đề tư tưởng, văn hoá hay kinh tế thuần túy mà là vấn đề chính trị. Chính trị với đúng nghĩa của nó là vấn đề quyền lực mà các thế lực thù địch nhằm từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước hết, chúng chống nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bôi đen lý lịch nói xấu các vị lãnh tụ của Đảng; xuyên tạc lịch sử và đường lối của Đảng nhất là về đường lối kinh tế… Không chỉ chống riêng Việt Nam mà là chống các đảng cộng sản cầm quyền trên thế giới đang tồn tại, nhằm làm lung lay tư tưởng, tạo sự mơ hồ về CNXH của cán bộ đảng viên và nhân dân.
Hỡi các thế lực chống cộng sản điên cuồng trên thế giới này, các người không hiểu lịch sử Việt Nam, lại càng không hiểu những người cộng sản Việt Nam. Có thể các người có nhiều phương tiện hiện đại nhưng lại thiếu thông tin thật sự về Việt Nam. Hãy nhớ rằng, những người cộng sản Việt Nam luôn sống vì cộng đồng dân tộc và nhân loại tiến bộ trên thế giới này. Bởi, chính họ là những người dân Việt Nam, tay lấm chân bùn đứng lên lãnh đạo cùng với dân tộc mình giành lại độc lập, tự do từ đế quốc xâm lược. Như chính bản thân dân tộc Việt Nam phải đấu tranh liên tục hàng ngàn năm trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước để tồn tại và phát triển chứ không đi cướp bóc để làm giàu bất chính bằng những sức mạnh tàn bạo đã từng diễn ra trong lịch sử nhân loại trong thế kỷ XIX, XX.
Dân tộc Việt Nam, những người yêu chuộng hòa bình, yêu dân tộc, chúng ta phải cảnh giác cao độ với những thủ đoạn tinh vi của các thế lực thù địch. Và chúng ta cố gắng hơn nữa trong cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hoá với kẻ thù không trực diện, kẻ thù trong bóng tối. Đó là cuộc đấu tranh tư tưởng gay go, quyết liệt không khác gì cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.
Do vậy, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là động lực, nền tảng tinh thần của xã hội. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ra sức đoàn kết phấn đấu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân – đó có thể là những phát đại bác nã vào đầu của các thế lực thù địch có mưu đồ đen tối. Trong điều kiện thế giới có nhiều biến động phức tạp như hiện nay, chúng ta càng phải hết sức tỉnh táo cảnh giác cao độ trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, nhân dân Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn giành nhiều thắng lợi trong mọi lĩnh vực: đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định, làm tốt chính sách an sinh xã hội, văn hóa xã hội không ngừng phát triển, quốc phòng - an ninh củng cố, chính trị ổn định, mở rộng ngoại giao… Việt Nam đã khẳng định vị thế quan trọng trong khu vực và thế giới. Chúng ta có quyền tự hào về những thắng lợi đó, nó sẽ là động lực cho cả dân tộc Việt Nam này vươn cao xa hơn. Những thắng lợi đó khẳng định bản lĩnh trí tuệ của Đảng và sự đoàn kết dân tộc Việt Nam.   
Bằng trí tuệ, niềm tin, ý chí và nghị lực với những cố gắng không mệt mỏi của toàn Đảng và cả dân tộc Việt Nam, tin chắc rằng chúng ta sẽ thành công trong xây dựng phát triển kinh tế, ổn định chính trị, củng cố an ninh - quốc phòng và chiến thắng các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, văn hoá.
Tác giả: THANH TÂN


PHÍA SAU CHIÊU BÀI DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN

     Sau khi chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch hí hửng cho rằng, cơ hội “ngàn vàng” đã đến để xóa bỏ các nước chủ nghĩa xã hội còn lại, sớm thực hiện giấc mộng “bá chủ thế giới”.
     Do sự biến đổi mau lẹ của thời cuộc nên phương thức “kinh điển” là dùng vũ khí, bạo lực vũ trang, gây chiến tranh, đổ quân xâm lược nước khác đã trở nên lỗi thời. Vì vậy, “diễn biến hòa bình” với các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”… được phương Tây coi là những “ngón đòn độc chiêu”, được đưa vào các chương trình nghị sự, trở thành điểm “then chốt” của chiến lược đối ngoại thời hậu “Chiến tranh lạnh” và là phương thức hữu hiệu để họ áp đặt các giá trị dân chủ, nhân quyền tư sản “kiểu phương Tây” vào Việt Nam và một số nước trên thế giới, với toan tính chuyển hóa các nước từng là XHCN đi theo quỹ đạo của họ, tạo thuận lợi để họ xếp đặt lại trật tự thế giới sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
     Quả thật, họ đang ngộ nhận là “đứng trên người khác”, là trung tâm văn hóa phát triển, đỉnh cao của nền dân chủ, có quyền ban phát cái gọi là “dân chủ, nhân quyền” cho nhân loại; thực hiện công việc “nhân đạo” là đi “khai hóa văn minh” cho các dân tộc, mà theo họ là “lạc hậu”, “kém cỏi”, “chậm tiến”... Và nếu quốc gia, dân tộc nào làm trái ý họ, muốn trượt ra ngoài “vòng cương tỏa” của họ, thì lập tức bị đưa vào danh sách “các nước còn nhiều hạn chế về quyền tự do, dân chủ”, là đối tượng “cần theo dõi”, “chỉnh đốn”... Làm việc đó, họ ngang nhiên tự cho mình là đại diện chân chính cho nền dân chủ, nhân quyền, là hình mẫu của sự phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ..., mà các quốc gia, dân tộc khác cần phải làm theo. Hơn thế, họ còn trắng trợn can thiệp vào công việc nội bộ của các nước có độc lập, chủ quyền, ép buộc các nước đang phát triển “quay theo vòng xoáy”, thực hiện sự sắp đặt của họ, ràng buộc bằng những điều khoản cam kết về “viện trợ kinh tế”, “giúp đỡ nhân đạo”, mà bất đắc dĩ, các nước nghèo phải chấp nhận.
     Họ không hề quan tâm đến sự khác biệt giữa các quốc gia, dân tộc, vùng miền; giữa các nước ở phương Đông và phương Tây, cũng như đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, dân tộc, vùng miền. Bằng văn hóa và lối sống phương Tây, họ đang muốn phủ lên các quốc gia, dân tộc đang phát triển “làn sóng văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây”, buộc mọi người phải thừa nhận rằng, chỉ có văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây mới là hình mẫu chuẩn mực nhất. Sự giáo đầu về lý luận ấy đã và đang hợp lý hóa các hành vi bạo lực “đánh trước”, “đánh phủ đầu” nhằm “phòng, chống, ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố để bảo vệ các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây”, kể cả chiến lược "diễn biến hòa bình".
     Họ đã và đang tung ra luận thuyết “dân chủ không biên giới", “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và coi đó là chuẩn mực để thực hiện “chủ nghĩa can thiệp mới” và sẵn sàng đổi trắng thay đen. Cô-xô-vô, I-rắc, Áp-ga-ni-xtan, Li-bi, Xy-ri… là kết quả của những cuộc thử nghiệm đó. Tuy nhiên, điều mà họ hứa hẹn là đem đến cho các nước này nền dân chủ, quyền sống làm người, tự do, độc lập, thì sau nhiều năm can thiệp chẳng thấy đâu, chỉ thấy ở các quốc gia, dân tộc mà họ đến, máu đổ thêm nhiều, đầy đau thương, tang tóc, chẳng có một ngày yên ả, hòa bình. Phải chăng kẻ đi phân phát dân chủ, nhân quyền lại chính là kẻ đang cướp đi quyền làm chủ, quyền sống của những người dân vô tội; giày xéo lên độc lập, chủ quyền của các nước mà họ cho là đi thực hiện sứ mệnh “khai hóa, giáo hóa”?
     Với Việt Nam, họ tìm mọi phương cách nhằm kích động những phần tử phản động, bất mãn với Đảng, Nhà nước, chế độ ta; tập hợp, tạo dựng phe cánh, gây “điểm nóng” về xung đột sắc tộc và tôn giáo, gây rối loạn tình hình chính trị, xã hội và khi có điều kiện thì tổ chức bạo loạn lật đổ. Việc can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thể hiện ở việc, họ họp bàn, thông qua “đạo luật dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam” với các màn kịch nhiều hồi, nhiều lớp, với lý do “chăm lo cho xây dựng nền dân chủ, đem lại hạnh phúc cho người dân Việt Nam”.
     Chúng ta hiểu rằng, chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” chỉ là một trong những âm mưu, thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã và đang áp dụng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Vì thế, hai trong nhiều vấn đề then chốt của các học thuyết “dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây cần áp dụng đối với Việt Nam” là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản. Họ sử dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” nhằm mục đích từng bước phá hoại Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN ở nước ta, không thừa nhận chế độ XHCN mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đồng tâm gắng sức xây đắp nên. Họ cũng cố tình xuyên tạc, vu cáo Việt Nam "thiếu nền dân chủ", “vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, lấy đó làm cớ để tuyên truyền sai lệch, nhằm kích động những phần tử bất mãn, phản động chống đối Đảng, Nhà nước ta, tiến tới phủ nhận con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
     Nhân dân Việt Nam đã đi qua hai cuộc chiến tranh thần thánh để tự bảo vệ mình, tự giải phóng mình nên càng thấu  thế nào là tự do độc lập, thế nào là toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Vì vậy đương nhiên, nhân dân Việt Nam sẽ biết nhìn nhận ai là bạn, ai là thù.
     Sự thật vẫn là sự thật và bản thân nó chứa đựng chân lý, không ai có thể dùng ý muốn chủ quan để áp đặt. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo gần 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Vị thế của đất nước Việt Nam ngày càng được nâng cao, đời sống của gần 90 triệu người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện. Khách quốc tế, bạn bè khắp năm châu đến Việt Nam đều thấy một sự thật: Đất nước Việt Nam đã thay da đổi thịt; dù còn nhiều việc phải làm, đời sống chưa thật sự khá giả, song chính trị-xã hội của đất nước luôn ổn định, cuộc sống thật sự có hòa bình, tự do, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, nhân dân thực sự là chủ nhân của đất nước.
     Những điều giản dị ở Việt Nam là chăm lo cho "nước ta được độc lập, đồng bào ta được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và đang được khẳng định. Đó là đạo lý, là lẽ sống giản dị, chân tình của người dân Việt Nam. Xin ai tự thừa nhận là tốt bụng, có lương tâm, biết sống vì con người thì đừng làm những điều sai trái, phản dân, hại nước, cản trở sự tiến bộ của lịch sử. Ai đó vẫn “ngựa quen đường cũ”, vẫn lên lớp về “dân chủ, nhân quyền”, xin hãy nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử hàng nghìn năm đánh giặc để dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; hãy đến thăm và tận mắt chứng kiến đất nước Việt Nam đổi thay, phát triển, yêu chuộng hòa bình, là điểm đến thân thiện, an toàn, mà bạn bè năm châu, nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ... đều ghi nhận, khâm phục, đánh giá cao./.

Tác giả: DƯƠNG PHƯƠNG DUY
Nguồn: qdnd.vn

Monday, December 14, 2015

CẦN KHÁCH QUAN KHI ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

Nhất quán với quan điểm tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện các chính sách đảm bảo cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được thuận lợi, góp phần làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam; qua đó, bác bỏ những luận điệu, cách đánh giá thiếu khách quan dựa trên những thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở nước ta.
Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo (TN,TG); trong đó, có tôn giáo du nhập từ bên ngoài, như: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo...; có tôn giáo nội sinh, như: Cao Ðài, Hòa Hảo,… Theo thống kê chưa đầy đủ, khoảng 95% dân số Việt Nam có đời sống TN,TG. Hiện nay, Việt Nam có 13 tôn giáo, với gần 24 triệu tín đồ, chiếm khoảng 27% dân số cả nước. Bên cạnh đó, còn có hàng chục tổ chức TN,TG khác đang tồn tại và xin cấp giấy phép hoạt động. Mỗi tôn giáo có một lịch sử du nhập, hình thành, phát triển khác nhau; sự gắn kết với dân tộc và sự nghiệp cách mạng cũng khác nhau, đã tạo nên một bức tranh tôn giáo phong phú, đa dạng. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đến nay, sinh hoạt TN,TG ở Việt Nam sôi động và đang có chiều hướng gia tăng; các tôn giáo đều xác định đường hướng hoạt động tôn giáo và xã hội của mình.
Có thể nói, với số lượng tín đồ, chức sắc đông đảo và ngày càng nhiều tôn giáo được công nhận, cùng với những hoạt động tôn giáo phong phú, đa dạng nói trên là minh chứng sinh động và rõ nét nhất khẳng định:Đảng, Nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều này, trước hết, được thể hiện đầy đủ trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Với việc tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân, Hiến pháp năm 1946 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo trên phạm vi cả nước. Hiến pháp năm 1959 khẳng định rõ hơn “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” (Điều 26). Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và năm 1992 đều quy định “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các TN,TG được pháp luật bảo hộ. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của nhà nước”. Gần đây nhấtHiến pháp năm 2013 (Điều 24) khẳng định rõ: “Mọi người có quyền tự do TN,TG, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do TN,TG. Không ai được xâm phạm tự do TN,TG hoặc lợi dụng TN,TG để vi phạm pháp luật”.
Những nguyên tắc cơ bản đối với tôn giáo trong Hiến pháp được Nhà nước thể chế hóa thành các văn bản pháp luật, như: Sắc lệnh 234/SL, ngày 14-6-1955 của Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành chính sách đối với tôn giáo; Nghị quyết 297/NQ-CP, ngày 11-11-1977 của Chính phủ về “Một số chính sách tôn giáo”; Nghị định 69/NĐ-HĐBT, ngày 20-3-1991 của Hội đồng Bộ trưởng Về hoạt động tôn giáo; Nghị định 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 Về các hoạt động tôn giáo. Đặc biệt, Nghị quyết 25/NQ-TW, ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) Về công tác tôn giáo đã khẳng định: TN,TG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta; đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời nhấn mạnh, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,... Trên cơ sở Nghị quyết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) đã ban hành Pháp lệnh TN,TG; Chính phủ ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP, Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh TN,TG; Nghị định 92/2012/NĐ-CP, Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh TN,TG, Chỉ thị 01/2005/CT-TTg Về một số công tác đối với đạo Tin lành (ngày 04-02-2005),… Để duy trì hoạt động tôn giáo theo đúng quy định, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng bộ máy chuyên trách làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo theo luật định và sự quản lý, điều hành của hệ thống chính trị, nhằm đảm bảo tự do tôn giáo được thực thi theo luật định và phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam.
Từ những quan điểm, chính sách và hệ thống các văn bản pháp luật trên, có thể khẳng định quyền tự do TN,TG ở Việt Nam được Đảng, Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và bảo hộ; từ đó, đã làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Về sinh hoạt tôn giáo: tín đồ các tôn giáo sinh hoạt tôn giáo bình thường tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống của tôn giáo mình. Một số sinh hoạt tôn giáo, nhất là những tôn giáo có phạm vi địa phương trước đây không thực hiện được, những năm gần đây đều được hoạt động; các hoạt động TN,TG ngày càng ổn định theo đúng hiến chương, điều lệ tổ chức, bảo đảm tuân thủ pháp luật. Chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào theo các tôn giáo “đồng hành cùng dân tộc”, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; hướng dẫn, động viên tín đồ tích cực tham gia hoạt động xã hội, từ thiện, thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”,hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, qua đó mở rộng uy tín, ảnh hưởng của tôn giáo mình. Về tổ chức tôn giáo: trước năm 1986, chỉ có 03 tổ chức, đến nay đã có 37 tổ chức và 01 pháp môn tu hành được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Về việc mở trường đào tạo chức sắc: trước đổi mới, chỉ có một số lớp của Phật giáo, Công giáo. Hiện nay, riêng Phật giáo có 04 học viện, 08 trường cao đẳng, 32 trường trung cấp; Công giáo có 07 Đại chủng viện và 01 phân hiệu; Tin lành có 02 Viện Thánh kinh thần học và Học viện Thần học,… Về xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự: trước đổi mới, hầu như không có hoạt động này. Hiện nay, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo (hơn 20.000 cơ sở - chiếm 80%) được sửa chữa, trong đó 1/3 được trùng tu sửa chữa quy mô lớn, đồng thời có khoảng 2.000 cơ sở thờ tự được xây mới. Việc cấp phép xuất bản ấn phẩm tôn giáo không ngừng tăng. Trước đổi mới, gần như không có hoạt động xuất bản kinh sách tôn giáo. Từ khi đổi mới, nhất là từ năm 1999 - khi Nhà Xuất bản Tôn giáo (thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ) thành lập đến nay, đã có khoảng 4.000 đầu sách được xuất bản với hàng chục triệu bản in (riêng kinh thánh gần 01 triệu bản). Ở Việt Nam hiện nay, có 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động,… Các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tạo điều kiện tích cực tham gia các hoạt động quốc tế thông qua việc trao đổi đoàn, tham dự các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế; tham gia các khóa đào tạo tôn giáo và các hoạt động quốc tế rộng rãi. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức trọng thể, thành công ở nước ta thời gian qua được dư luận thế giới đánh giá cao, là minh chứng sinh động về chính sách tự do TN,TG ở Việt Nam. Điển hình là các hoạt động: Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (VESAK) năm 2008 và năm 2014; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI (năm 2009 - 2010); Lễ Khai mạc Năm Thánh của Giáo hội Công giáo (năm 2009); Kỷ niệm 100 năm Tin lành đến Việt Nam (năm 2011), Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á châu lần thứ X (năm 2012),… Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam những năm qua đã làm cho quần chúng tín đồ, chức sắc thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần vào sự ổn định tình hình chính trị và phát triển của đất nước Việt Nam.
Tuy nhiên, do không thấy hoặc cố tình làm ngơ trước kết quả trên, các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam, thông qua chiến lược “Diễn biến hoà bình” đã lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo” để gây bất ổn về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng nhìn nhận tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam và luôn xác định vấn đề “tự do tôn giáo” là nguyên cớ để chống Việt Nam. Để thực hiện mưu đồ đó, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước và đang hậu thuẫn cho một số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả về tinh thần và vật chất, phục vụ cho âm mưu sử dụng tôn giáo làm lực lượng thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” theo kiểu phương Tây nhằm làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Chính sự hậu thuẫn này là nhân tố kích động số phần tử cực đoan, quá khích trong tôn giáo có thái độ thách thức với chính quyền, như: ý đồ thành lập “Ủy ban liên tôn chống cộng”, “Hội đồng liên tôn”, “Hội đồng Nhân quyền”,... lôi kéo tín đồ, tụ tập đông người, xúi giục biểu tình, gây rối, bạo loạn, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp. Các thế lực thù địch, phản động bên ngoài tự nhận là bảo vệ dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo dùng chiêu bài dân chủ, quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, trong đó có Việt Nam; ban hành nhiều đạo luật về vấn đề tôn giáo quy định các chế tài chống lại các nước mà họ cho là “vi phạm tự do tôn giáo”. Hạ Viện Mỹ liên tục thông qua các Dự luật và Nghị quyết liên quan tới tình hình thực thi nhân quyền tại Việt Nam, trong đó có vấn đề tôn giáo, như: Dự luật HR 1587 (năm 2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013), Nghị quyết H.Res.484, Nghị quyết về nhân quyền Việt Nam của Nghị viện châu Âu,… Nhiều chính khách Mỹ, khi tiếp xúc với Việt Nam luôn đặt vấn đề “cải thiện quyền con người”, đòi “tự do tôn giáo”. Quốc hội Mỹ đã ra một số nghị quyết và tổ chức nhiều cuộc điều trần về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Các lần đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ, Việt Nam - EU gần đây, vấn đề tôn giáo luôn được Bộ Ngoại giao Mỹ quan tâm và chất vấn, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ đã khuyến cáo Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC).
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức đẩy mạnh các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước ta, như: lập ra “Chính phủ Đề-ga” lưu vong, “Chính phủ Khơ-me tự do”, kích động khuynh hướng ly khai dân tộc, đòi thành lập các khu tự trị như “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc, “Nhà nước Đề-ga độc lập” ở Tây Nguyên, “Nhà nước Khơ-me - Crôm độc lập” ở Tây Nam Bộ, “Nhà nước Chăm độc lập” ở Nam Trung Bộ. Chúng gắn vấn đề dân tộc với tôn giáo, sử dụng các phần tử xấu trong các dân tộc và tôn giáo chống lại cách mạng. Hầu hết những cuộc gây rối, bạo loạn ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ vừa qua đều gắn với vấn đề tôn giáo, sử dụng tôn giáo làm phương tiện tập hợp lực lượng để chống chính quyền. Đáng lo ngại là xuất hiện hiện tượng tín ngưỡng, tâm linh mới mang nặng mê tín dị đoan, phát triển trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên,... phá vỡ truyền thống văn hóa bản địa và có ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, như: hoạt động của nhóm Dương Văn Mình, Pháp Luân Công,... Một bộ phận chức sắc tôn giáo và giáo dân có tư tưởng cực đoan, bị các thế lực thù địch, bọn phản động lưu vong ở nước ngoài và một số phần tử cơ hội chính trị trong nước cấu kết thực hiện âm mưu dụ dỗ, mua chuộc những người khiếu kiện, kích động họ tham gia biểu tình chống chính quyền; gắn tôn giáo ở Việt Nam với vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” và ra sức đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vu cáo Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền, không có tự do tôn giáo và chúng cho rằng Việt Nam có tình trạng đàn áp và bắt bỏ tù những người hoạt động đấu tranh cho tự do tôn giáo, đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, v.v.
Dựa trên những thông tin không đúng sự thật, bằng cái nhìn sai lệch, định kiến của các thế lực chống phá cách mạng Việt Nam với những luận điệu không mới nêu trên là những việc làm sai trái, không phù hợp với pháp luật Việt Nam và Luật pháp quốc tế. Bởi lẽ, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc thực hiện đầy đủ các quyền con người, không vi phạm “Tuyên ngôn nhân quyền” của thế giới. Việc bảo đảm tự do Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được đặt trong tương quan hài hòa với những yếu tố lịch sử - văn hóa của dân tộc, kết hợp với việc giữ vững an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc. Cũng như mọi dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam có quyền tự do "quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa" như Phần mở đầu Công ước về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (Khoản 1, Ðiều 1) khẳng định. Bảo đảm quyền con người trở thành lý tưởng chung mà các quốc gia, dân tộc cần đạt tới và là nền tảng của tự do, công lý, hòa bình trên thế giới. Là thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc và cộng đồng thế giới, Việt Nam luôn chia sẻ, tôn trọng các yêu cầu và cam kết quốc tế về nhân quyền nói trên. Thực tế lịch sử Việt Nam cũng cho thấy, nhiều tổ chức tôn giáo và hoạt động TN,TG luôn đồng hành cùng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống lại áp bức, bất công, giành lại nền độc lập dân tộc, và ngày nay đang nỗ lực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong tình hình hiện nay, các cơ quan chức năng, nòng cốt là cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở các cấp cần phát huy tốt hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình, chủ động thông tin, hướng dẫn, tuyên truyền để các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong và ngoài nước hiểu và thực hiện đúng chính sách tôn giáo ở Việt Nam; kịp thời vạch trần âm mưu, thủ đoạn, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, góp phần loại bỏ những cách nhìn thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Tác giả: PGS, TS. PHẠM DŨNG, Thứ trưởng Bộ Nội vụ,
Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ

Nguồn: tapchiqptd.vn

VÌ SAO VIỆT NAM KHÔNG CẦN ĐA ĐẢNG?

      Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định và phát triển, tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
        Đa đảng là gì?
       Đa nguyên chính trị xuất hiện vào đầu thế kỷ 18, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong đấu tranh bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản. Đó là một khuynh hướng xã hội - triết học, tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội. Hệ thống đa đảng là hệ thống mà ở đó có nhiều đảng chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau.
      Trong các quốc gia có thể chế chính trị đa đảng, một đảng nào đó chiếm được đa số (sau thắng lợi bầu cử), nhưng chưa đạt đến mức độ tuyệt đối thì phải liên minh với một số đảng khác, tạo thành một liên minh cầm quyền. Khi đó giữa các đảng có sự dàn xếp với nhau, điều hòa về các vị trí chủ chốt trong nội các, điều hòa về chính sách và quyền lực. Đảng nào chiếm số lượng cử tri đông nhất thì đảng đó có nhiều đại biểu trong quốc hội, có nhiều ghế trong chính phủ, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong chính quyền nhà nước.
      Trong các nước thực hiện chế độ một đảng, tính chất quyết định và sự nắm quyền, cũng như sự chi phối của đảng đối với đời sống xã hội, thể hiện rõ và tuyệt đối hơn trên toàn bộ các yếu tố cấu thành nội dung của đảng cầm quyền. Đảng đó là lực lượng duy nhất nắm chính quyền nhà nước, không chia sẻ bất kỳ cho ai, cho bất kỳ một lực lượng xã hội nào.
      Hai trường hợp cơ bản này đã và đang diễn ra trong đời sống chính trị thế giới hiện đại. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng đa đảng và một đảng đã và đang diễn ra rất quyết liệt, thực chất đó là biểu hiện của cuộc đấu tranh giai cấp, phản ánh tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay...
       Có đúng là “nhiều đảng cạnh tranh nhau thì dân chủ hơn”?
      Có ý kiến cho rằng, thực hiện đa đảng, có nhiều đảng cạnh tranh nhau thì sẽ dân chủ hơn, sẽ tốt hơn một đảng! Có đúng như vậy không? Câu trả lời ở đây là không phải như vậy. Hãy xem chính người Mỹ nói về nước Mỹ, một  nước thực hiện chế độ đa đảng, thực chất là thế nào. Họ nói rằng, nước Mỹ là một nước “tự do” người dân tự do biểu tình, chửi bới, báo chí tự do phanh phui những chuyện nhạy cảm, xuyên tạc, bôi xấu lẫn nhau vì sự cạnh tranh của các đảng phái này, nhằm hạ uy tín của đảng phái kia. Nhưng điều đó không phải là bản chất thực sự của dân chủ.
       Giáo sư trường Đại học bang Indiana, Paul Mishler cho thấy rõ thực chất vấn đề: “Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học... đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra”; “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân chủ”.
       Có thể rút ra một số vấn đề sau: thứ nhất, chế độ đa đảng của nước Mỹ “thực chất chỉ là một đảng”, là sự cầm quyền của đảng tư sản; thứ hai, dân chủ ở nước Mỹ là dân chủ tư sản, không phải là dân chủ của đa số, không thực hiện quyền lực thực sự thuộc về nhân dân; thứ ba, thực chất đa đảng đối lập trong xã hội tư bản chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản.
        Bất cứ một nền dân chủ nào, cũng đều nhằm đảm bảo sự thống trị của giai cấp thống trị, cầm quyền. Dân chủ không phụ thuộc vào cơ chế độc đảng hay đa đảng, mà nó phụ thuộc vào bản chất của chế độ cầm quyền phục vụ cho giai cấp nào. Bản thân nền dân chủ tư sản, dù có được tô vẽ như thế nào chăng nữa, thì nền dân chủ đó vẫn là nền dân chủ của giai cấp tư sản, nhằm bảo đảm sự thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản đối với xã hội và lao động.
       Lịch sử cách mạng Việt Nam đã có và cũng đã phủ định đa đảng
       Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua sự “sàng lọc” dữ dội của lịch sử những thập niên đầu thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người dẫn dắt mình đi đến tương lai hạnh phúc.
      Tháng 8/1945, Đảng ta lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Trong những ngày đầu giữ chính quyền và nền độc lập dân tộc, Đảng ta đã tự tuyên bố giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia lãnh đạo đất nước. Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã có các đảng như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, Quốc dân đảng tham gia. Sau này còn Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản, đến năm 1988, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội tuyên bố tự giải tán.
       Toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam và hoạt động của nhà nước Việt Nam mới là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền chính trị của nước ta vẫn là nền chính trị nhất nguyên. Chế độ chính trị đó là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam, nhân dân ta thực sự được làm chủ cuộc sống của mình, được sống cuộc đời “tự do, hạnh phúc”.
      Tính nguy hiểm của luận điểm đòi Việt Nam thực hiện đa đảng đối lập
      Các thế lực thù địch rêu rao “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” như là “khuôn vàng, thước ngọc” của dân chủ mà chúng ta phải tuân theo. Chúng cho rằng: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản, vì đó là then chốt của chế độ dân chủ”. Quan điểm này được khoác cái vỏ “vì dân chủ”, “vì dân, vì nước”, lợi dụng những khó khăn, phức tạp và cả khuyết điểm của chúng ta trong quá trình thực thi dân chủ để chống phá, nên nó càng trở nên nguy hiểm.
       Tính nguy hiểm của thủ đoạn này biểu hiện ở chỗ:
       Thứ nhất, luận điểm “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” là luận điểm mang nặng tính chất mị dân, dễ gây nên sự ngộ nhận mơ hồ, lẫn lộn về nhận thức, sự dao động về tư tưởng trong một bộ phận cán bộ và nhân dân. Nếu không thực hiện được ý đồ thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng thì cũng dễ gây nên sự chia rẽ trong xã hội và sự thiếu thống nhất về chính trị tư tưởng trong xã hội; sự hoài nghi, dao động, thiếu niềm tự tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
      Thứ hai, thực chất luận điểm đó là nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội, xoá bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, “lái’ nền dân chủ nước ta sang nền dân chủ khác, phi xã hội chủ nghĩa. Dù chúng không trực tiếp nói đến chúng ta phải thực hiện dân chủ tư sản, nhưng cái cách “khuyên” chúng ta thực hiện đa đảng, học tập theo các nước phương Tây, đã cho thấy thực chất đó là hướng nền dân chủ nước ta sang dân chủ tư sản.
       Thứ ba, đó là luận điểm phản khoa học và phi lịch sử. Bởi vì, trên thực tế không có thứ dân chủ chung chung trừu tượng, trong thời đại ngày nay chỉ có thể là dân chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cái gọi là đa đảng như trong xã hội phương Tây thực chất là sự chi phối của đảng tư sản, là biểu hiện sự tranh chấp giữa các nhóm chính trị khác nhau của chính giai cấp tư sản. Nếu nước ta thực hiện đa đảng thì các thế lực thù địch muốn đa đảng như thế nào, chắc chắn rằng chúng không muốn đa đảng mà ở đó lại có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
         Điều gì sẽ đến, nếu ở Việt Nam thực hiện đa đảng?
        Các thế lực thù địch “khuyên” chúng ta thực hiện đa đảng thì sẽ được dân chủ hơn, đất nước sẽ phát triển hơn đời sống nhân dân sẽ được tốt đẹp hơn. Có một số ít người trong chúng ta ngộ nhận và cũng hy vọng đất nước sẽ phát triển hơn nếu Việt Nam thực hiện đa đảng! Điều chắc chắn rằng sẽ  không phải như vậy, không phải như các thế lực thù địch tô vẽ ra và như viễn cảnh hy vọng của một số người.
       Điều dẫn đến sẽ là: đất nước diễn ra cảnh hỗn loạn, mất ổn định, làm đổ vỡ nền kinh tế, rơi vào thảm họa như đã từng xảy ra ở một số nước. Thảm họa đó chắc chắn sẽ giáng cả lên đầu nhân dân, nhân dân chỉ là cái cớ cho sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Rút cục, Việt Nam không còn là đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo xã hội; mọi thành quả cách mạng của nhân dân ta bị tiêu tan. Cần nhớ lại một bài học đau xót và thấm thía về thực thi dân chủ sai nguyên tắc ở Liên Xô trong thời gian cải tổ. Những đơn thuốc “công khai hoá”, “dân chủ hoá”, “đa nguyên chính trị” đưa ra nhằm cải tổ chủ nghĩa xã hội, lại tạo “thời cơ”, điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch ráo riết hơn, quyết liệt hơn trong mưu đồ chống phá và dẫn đến làm tan rã, đổ vỡ chế độ Xô Viết.
      Ở Việt Nam không thực hiện chế độ đa đảng không phải vì chúng ta bảo thủ, mất dân chủ như các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc, mà đó là yêu cầu khách quan, là vì sự ổn định và phát triển của đất nước, vì sự phát triển của nền dân chủ và hạnh phúc của nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh...
Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định và phát triển, tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
      Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhằm không ngừng củng cố hoàn thiện những điều kiện bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; không ngừng chăm lo và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Trong chế độ chính trị nhất nguyên ở nước ta, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong các văn bản Hiến pháp, pháp luật, mà điều quan trọng ngày càng được thể hiện sinh động trong cuộc sống hàng ngày, trong đời sống hiện thực của quần chúng nhân dân.
       Mọi công dân Việt Nam đều có quyền tham gia quản lý xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua người đại diên do mình lựa chọn. Ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân ngày càng được đề cao. “Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”. Nhân dân có quyền lập và tham gia các tổ chức xã hội; quyền tự do báo chí, tự do hội họp theo quy định của pháp luật.
      Sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam gần 25 năm qua đã đạt được thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế phát triển. Mười năm gần đây, mức sống trung bình của người dân Việt Nam đã tăng lên hơn hai lần; vấn đề xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội được coi là mục tiêu chiến lược quan trọng cả trước mắt và lâu dài. Điều quan trọng là, tuy GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp, đứng ở tốp cuối trong nhóm các nước đang phát triển, thì về chỉ số phát triển con người (HDI), Việt Nam lại đứng ở mức trên trung bình trong nhóm các nước này, chứng tỏ sự phát triển xã hội và dân chủ ở Việt Nam được đặc biệt quan tâm.
       Chủ tịch Ủy ban châu Âu José Manuel Barroso nhiều lần bày tỏ sự ngưỡng mộ về sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và đã có “ấn tượng sâu sắc với thành tựu của Việt Nam trong hơn hai mươi năm qua”. Mới đây, tại London, ngày 23-24/9/2008, trong báo cáo nhan đề “Các thị trường của tương lai”, Cơ quan Thương mại và Đầu tư của Chính phủ Anh nhận định: “Việt Nam là thị trường có sức hấp dẫn nhất, đứng đầu trong 10 nước có tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai”. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực trong công cuộc đổi mới đất nước của nhân dân ta là bằng chứng hùng hồn của sự vươn lên xây dựng “một quốc gia "phồn thịnh” với đúng nghĩa thực sự, khẳng định tính tuyệt đối và không thể phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
      Ở nước ta, thực hiện một đảng duy nhất lãnh đạo, mọi người dân đều có thể trực tiếp hay gián tiếp (thông qua người đại diện của mình) đề đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cơ quan công quyền. Các kênh bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và hoạt động có hiệu quả. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trở thành quy chế, thiết chế dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội, trong các hoạt động của xã hội; là phương châm hành động của người dân trong xây dựng hệ thống chính trị; là yêu cầu ứng xử của cán bộ trong tiếp xúc, quan hệ với dân và chăm lo đến dân. Nhân dân lao động là chủ thể mọi quyền lực; quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.
       Thực tế vừa nêu chưa phải là đầy đủ, nhưng đã cho thấy tính ưu việt của chế độ một đảng ở Việt Nam; không thể vì những khó khăn, phức tạp nào đó mà xuyên tạc bản chất chế độ dân chủ của nước ta, đòi thực hiện đa đảng, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
        Chế độ dân chủ ở nước ta là chế độ dân chủ tốt đẹp và ưu việt. Bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nó không phải tự nhiên mà có, mà là kết quả của biết bao mồ hôi công sức và cả máu xương của nhiều thế hệ người Việt Nam chúng ta. Bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ này có được giữ gìn, nâng cao và phát huy hay không, điều đó phụ thuộc vào chính chúng ta, vào sự quyết tâm và nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
       Vấn đề đặt ra hiện nay đối với chúng ta không phải là lựa chọn một đảng hay đa đảng, mà là phải thực hiện tốt hơn nữa quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội. Đồng thời thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng, “Phải dành nhiều công sức tạo được sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực”, xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng./.
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Mạnh Hưởng
Nguồn: Báo TNVN

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Bài viết đưa ra những lập luận, dẫn chứng từ thực tiễn cũng như  trích dẫn một số ý kiến đánh giá khách quan của cộng động quốc tế về vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN đối với các thành tựu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước để phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận vai trò của Đảng.
Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thủ đoạn thâm hiểm của các thế lực thù địch, nhằm xóa bỏ thành quả cách mạng và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Tuy nhiên, thực tiễn 85 năm qua đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là không thể bác bỏ.
Mục tiêu nhất quán, thủ đoạn thâm độc
Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, mục tiêu nhất quán của các thế lực thù địch là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (ĐCS) đối với cách mạng Việt Nam. Mưu đồ đó đã được họ tiến hành từ lâu và tiếp tục trong tương lai, với hy vọng rằng: “Kịch bản này đã thành công ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, ắt sẽ có ngày thắng lợi ở Việt Nam” (!) Hòng thực hiện điều đó, chúng sử dụng nhiều thủ đoạn thâm hiểm.
Về lý luận, họ tung ra luận thuyết “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tốt hơn chế độ một đảng lãnh đạo”. Họ cố chứng minh rằng: “chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo là đối lập với dân chủ, đồng nhất với độc tài, cản trở sự phát triển”, còn “đa nguyên, đa đảng sẽ khơi dậy sự sáng tạo của toàn dân, tốt hơn cho sự phát triển của xã hội” (?) Họ cố tình lờ đi một thực tế là dân chủ không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị, mà phụ thuộc vào bản chất chính trị của đảng cầm quyền, như: ở In-đô-nê-xi-a thời chính quyền Xu-hac-tô, Phi-líp-pin thời chính quyền Fec-di-nan Mac-cot, Chi-lê thời chính quyền Pi-nô-chê,... chẳng phải là các chế độ độc tài tồn tại trong môi trường chính trị đa đảng sao? Tuy nhiên, luận thuyết ấy được áp dụng vào Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, nó đã mê hoặc được không ít đảng viên cộng sản và quần chúng nhân dân, nhất là khi nhân dân hoang mang, dao động trước những khó khăn của đất nước; bức xúc trước những khuyết điểm trong lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Luận thuyết ấy đã góp phần gạt bỏ vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của các ĐCS và công nhân ở những nước này, là nhân tố quyết định dẫn đến sự tan rã chế độ XHCN nơi đây. Chính vì thế, các thế lực thù địch hy vọng luận thuyết trên sẽ phát huy tác dụng ở Việt Nam (!)
Trên bình diện thực tiễn, các thế lực thù địch thường viện dẫn và xuyên tạc sự thật lịch sử để cố chứng minh chế độ một đảng lãnh đạo là “sai lầm”. Họ cho rằng, nếu không có ĐCS Việt Nam trên chính trường thì dân tộc ta không phải tiến hành mấy cuộc chiến tranh lâu dài và đau thương như thế; và rằng, nếu ĐCS Việt Nam không “tiếm quyền” thì Việt Nam đã đứng trong hàng ngũ các nước phát triển từ lâu (!) Những năm gần đây, họ thường cường điệu một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, nhất là một số hiện tượng đơn lẻ, biến nó thành phổ biến, tất yếu của chế độ một đảng lãnh đạo, rồi quy kết vào cái gọi là “lỗi hệ thống” - ám chỉ hệ thống chính trị do một đảng lãnh đạo. Từ đây, họ yêu cầu Đảng tự nguyện rời bỏ vai trò lãnh đạo, vì theo họ: “Đảng chỉ giỏi lãnh đạo trong chiến tranh, còn trong xây dựng kinh tế thì nên trao quyền cho lực lượng chính trị khác”(!) Trong các thời điểm nhạy cảm, như: khi Liên Xô tan rã, giai đoạn chuẩn bị đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc, hoặc những thời đoạn kinh tế đất nước gặp khó khăn; gần đây là dịp thảo luận dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, họ công khai đòi bỏ Điều 4 quy định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Điều nguy hiểm là những thủ đoạn nói trên của các phần tử cơ hội, bất mãn trong nước lại được các thế lực chống cộng bên ngoài cổ súy, tiếp tay, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và xã hội ta. Tuy nhiên, những thủ đoạn thâm hiểm đó nhanh chóng bị vạch trần, bởi đại đa số nhân dân hiểu rằng: sự lãnh đạo của ĐCS là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; các mưu toan xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam là trái với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển đất nước.
Thực tiễn là chân lý
Lịch sử luôn khách quan, là hiện thực sống động nhất bác bỏ mọi sự xuyên tạc về vai trò lãnh đạo của Đảng. Điểm lại lịch sử cách mạng nước ta từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có thể thấy rõ: trước khi ĐCS Việt Nam ra đời, không cam chịu ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân cả nước đã liên tục vùng lên đấu tranh dưới các ngọn cờ lãnh đạo theo hệ tư tưởng phong kiến, hay lập trường nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Đó là các phong trào: Cần Vương, khởi nghĩa nông dân Yên Thế, cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục, các phong trào Đông Du, Tây Du, cuộc khởi nghĩa Yên Bái, v.v. Mặc dù các phong trào đó sáng ngời tinh thần yêu nước, bất khuất, nhưng đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Cũng chính thời gian này, hàng loạt tổ chức đảng phái chính trị ra đời, như: Hội Phục Việt (năm 1925), Việt Nam Quốc dân đảng (năm 1927),... với nhiều cương lĩnh chính trị khác nhau, nhằm chiếm lĩnh vũ đài lịch sử, nhưng tất cả những ngọn cờ này đều nhanh chóng bị hạ xuống ngoài ý muốn của họ. Tại sao vậy? Bởi, các ngọn cờ đã nêu không phù hợp với xu thế thời đại, không thỏa mãn được lợi ích và nguyện vọng chính đáng của cả dân tộc. Chỉ đến khi ĐCS Việt Nam ra đời, với đường lối cứu nước đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong phong trào yêu nước, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Vậy là, lịch sử cách mạng Việt Nam đã trao trọng trách lãnh đạo đất nước cho Đảng ta, sau khi đã khảo nghiệm một cách khắt khe những phương án chính trị của các giai cấp đương thời, chứ đâu phải là “tiếm quyền” như sự xuyên tạc của những kẻ cơ hội. Đảng ta xứng đáng được lịch sử giao trọng trách vinh quang đó, bởi Đảng ta là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”1. Đó là điều mà không một đảng phái nào khác trong lịch sử Việt Nam, ngoài ĐCS Việt Nam, có thể gánh vác nổi. Thực tiễn 85 năm qua minh chứng rằng, dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, “Nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường XHCN; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh CNH,HĐH”2. Việc nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO; là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009; Ủy viên Hội đồng Nhân quyền thế giới hiện nay; Tổng thư ký ASEAN nhiệm kỳ 2013 - 2017; hàng loạt chuyến thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước đến một số nước Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, Va-ti-can,… theo lời mời của nguyên thủ các nước này với những nghi thức chào đón trọng thị, đã khẳng định vị thế và uy tín ngày càng cao của Việt Nam và ĐCS Việt Nam trên trường quốc tế. Mấy năm gần đây, trước tác động của tình trạng suy thoái kinh tế thế giới, trong khi nhiều nước không giữ được sự ổn định, thì tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam vẫn là một điểm sáng của khu vực và thế giới. Riêng trong năm 2014hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại vẫn đạt được những kết quả tích cực: tăng trưởng 5,98%; lạm phát 4,09%; xuất khẩu tăng 13,6% với kim ngạch đạt kỷ lục hơn 150 tỷ USD; tổng thu ngân sách nhà nước vượt 4%; hộ nghèo giảm còn gần 6%; “đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; chủ quyền quốc gia được bảo đảm; chính trị xã hội ổn định; vị thế quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng lên”3. Điều đáng mừng là niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư của nước ta tiếp tục được giữ vững. Vốn FDI thực hiện cả năm 2014 vẫn tăng 7,4%, số dự án cấp mới tăng 24,5%, số lượt dự án tăng vốn tăng 25,8% so với năm trước. Xu hướng được dự báo là các nhà đầu tư lớn trên thế giới sẽ dịch chuyển về Việt Nam để đón đầu cơ hội triển khai các hiệp định tự do thương mại (FTA) mà Việt Nam đã, hoặc sẽ hoàn thành đàm phán trong năm 2015. Những thành tựu đó đều gắn liền với sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam và là minh chứng thuyết phục về năng lực lãnh đạo của ĐCS Việt Nam trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập.
Tiếng nói khách quan của cộng đồng quốc tế
Đánh giá những thành tựu trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, nhân kỷ niệm 20 năm hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ (tháng 10-2013), bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam cho rằng: “Hai mươi năm qua đã chứng kiến những tiến bộ phát triển vượt bậc của Việt Nam. Ngày nay, Việt Nam là một nước có thu nhập trung bình. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn khoảng 10% năm 2012, với hơn 30 triệu người thoát nghèo. Các chỉ số phúc lợi xã hội hiện nay cao hơn phần lớn các nước có mức thu nhập cao hơn. Phần lớn người dân Việt Nam được hưởng nền giáo dục tốt hơn. Tỷ lệ tử vong ở bà mẹ khi sinh ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. 95% số dân nông thôn Việt Nam có điện lưới, so với 83% ở Phi-lip-pin và 74% ở In-đô-nê-xi-a. Việt Nam đã đạt được năm trong số tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) ban đầu và đang trên đường hoàn thành nốt hai mục tiêu nữa vào năm 2015. Năm 2010, Việt Nam đứng thứ sáu trên toàn cầu về tiến triển hoàn thành MDGs. Có thể nói, những thành tựu của Việt Nam trong 20 năm qua là rất nổi bật; mà thành công có được đầu tiên là nhờ vào tầm nhìn và quyết tâm của lãnh đạo Chính phủ, cũng như tinh thần chịu khó và khởi nghiệp của người dân Việt Nam”. Trong Báo cáo Phát triển con người toàn cầu (HDR) 2014, Trưởng đại diện Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam, bà Pratibha Mehta cho biết: “Việt Nam là một trong những nước rất năng động và đạt được tiến bộ HDR rất nhanh. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam (HDI) đã tăng 41% trong vòng hai thập kỷ qua. Năm 2012, Việt Nam đứng thứ 127/187 quốc gia và vùng lãnh thổ; năm 2014 tiến lên đứng thứ 121, ở mức trung bình của thế giới”. Còn trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, lĩnh vực mà các thế lực thù địch thường chỉ trích, đổ lỗi cho chế độ một đảng lãnh đạo, mà họ gọi là chế độ “toàn trị”, thì Việt Nam cũng có nhiều thành tựu nổi bật. Việt Nam được bầu vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và Hội đồng Nhân quyền thế giới với số phiếu gần như tuyệt đối, không đơn thuần chỉ là sự công nhận của cộng đồng quốc tế về vấn đề quyền con người được bảo đảm, mà còn là sự ghi nhận thành quả đổi mới toàn diện của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCS đã đưa đất nước này trở thành một quốc gia có vị trí quan trọng, được quốc tế tin cậy. Chính ông Lê Vũ - Chủ nhiệm tuần báo Viet WEEKLY ở nam Ca-li-fooc-ni-a (Hoa Kỳ), một tờ báo hay chỉ trích Chính phủ Việt Nam, trong chuyến về thăm Việt Nam gần đây cho biết: “Tôi không có cảm nhận rằng, Việt Nam là một đất nước đang có đàn áp tôn giáo và nhân quyền như nhiều nguồn tin hải ngoại. Trái lại, tôi thấy ở đất nước đang phát triển, đổi thay từng ngày, từng giờ. Đất nước có thật nhiều điều mới mẻ, hấp dẫn”. Còn Tổng Thư ký tòa soạn tuần báo trên, ông Etcetera Nguyễn thì cho rằng: “Những hình ảnh về đất nước, con người và xã hội Việt Nam sống động, tươi mát và phát triển như ngày nay, chúng tôi chuyển tải qua trang báo của chúng tôi về nước. Tự nó sẽ là bằng chứng sống bác bỏ những suy nghĩ và hành động chưa đúng, chưa xác thực về Việt Nam”, v.v.
Những phát biểu nói trên cũng chính là sự thừa nhận khách quan của cộng đồng quốc tế về vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay; bởi, những thành tựu đó luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy, ở Việt Nam, trong 85 năm qua, các tầng lớp nhân dân đều thừa nhận sự lãnh đạo độc tôn của ĐCS Việt Nam; đại đa số nhân dân thực sự coi Đảng là lực lượng lãnh đạo, là người đại biểu trung thành cho lợi ích của mình. Thực tế đó đã được các nhà nghiên cứu của Viện Phát triển quốc tế thuộc Trường Đại học Ha-vớt (Hoa Kỳ) nhận xét trong một công trình nghiên cứu cùng Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA): “Ở Việt Nam, trong tương lai, khó có thể hình dung cơ sở xã hội cho việc xây dựng một đảng có khả năng cạnh tranh với ĐCS Việt Nam. Hơn nữa, Đảng phải tăng cường hệ thống một đảng không chỉ vì lý do tư tưởng mà còn hầu hết đảng viên đều tin rằng đường lối chính trị cạnh tranh sẽ làm trầm trọng thêm những chia rẽ giữa các vùng và làm mất ổn định chính trị”.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam chỉ có thể được giữ vững và tăng cường khi uy tín của Đảng tiếp tục được khẳng định, niềm tin vào Đảng của nhân dân luôn vững chắc, hiệu quả lãnh đạo của Đảng không ngừng được tăng lên. Trong thực tiễn, cũng có thời kỳ Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Song, Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, tự chỉnh đốn, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tiếp tục lãnh đạo để đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Hiện nay, có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đã làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nhận rõ thực trạng đó, toàn Đảng đang đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, cùng Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với một hệ thống giải pháp rất quyết liệt; đã kỷ luật và đưa ra tòa án xét xử công khai những cán bộ, đảng viên dính đến tham nhũng, tiêu cực. Kết quả bước đầu của việc thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị nói trên đã có tác dụng cảnh báo, răn đe và phòng ngừa các hành vi tham nhũng, tiêu cực, góp phần ngăn chặn tình trạng trên, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng trong bối cảnh mới đòi hỏi Đảng ta phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà vấn đề cấp bách trong quá trình tiến tới Đại hội XII hiện nay là: nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, v.v. Cùng với đó, phải tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng được một Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của dân, do dân, vì dân.
Xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng là vấn đề then chốt để Đảng ta giữ vững vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Đó là cách làm hiệu quả nhất để bác bỏ những mưu toan và hành động phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.

Tác giả: NGUYỄN NGỌC HỒI

Nguồn: tapchiqptd.vn