Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với đường lối đúng
đắn, dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lê-nin, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử loài người, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp
nhân dân yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu
tranh chống thực dân, phong kiến vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt 85 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được những
thắng lợi vĩ đại.
1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
- Đặc điểm của thời kỳ này là cách mạng Việt Nam đã có đội tiên
phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách
mạng Việt Nam phát triển theo xu thế của thời đại đã được mở ra từ cách mạng xã
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.
- Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền đã
diễn ra với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa như 3 cuộc tổng diễn tập chuẩn bị
cho cuộc Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân: Cao trào cách
mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân
sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng
Tháng Tám 1945 (1939 - 1945). Đó là quá trình đấu tranh cách mạng vô cùng khó
khăn, gian khổ của Đảng và dân tộc Việt Nam.
- Thực tiễn 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và
nhân dân Việt Nam đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối
quan hệ cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào
cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc, đó là:
+ Quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa
mục tiêu dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
+ Quan hệ giữa các mục tiêu chiến lược lâu dài và mục tiêu cụ thể
trước mắt, giữa giành thắng lợi từng bước, khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
+ Quan hệ giữa chiến lược và sách lược, phương pháp cách mạng, sử
dụng đúng đắn các hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp với từng điều kiện
lịch sử cụ thể.
+ Quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa xây dựng đảng và xây dựng,
phát triển lực lượng cách mạng của quần chúng được tập hợp trong Mặt trận Dân
tộc thống nhất.
+ Quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữa xây
dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh bên trong, nêu cao ý chí tự lực, tự
cường, độc lập, tự chủ và sáng tạo với tranh thủ những điều kiện và thời cơ
thuận lợi do tình hình quốc tế đem lại.
+ Quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy lùi nguy cơ, tổ chức
và sử dụng các lực lượng cách mạng…
- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt sự
thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân,
phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công dẫn đến sự ra đời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà
nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất
trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là thắng lợi
đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, thắng
lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình
của thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Do sự lãnh đạo sáng suốt và
kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài
mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”; “Chẳng những giai
cấp lao động và nhân dân Việt Nam có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những
dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên
trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”[1].
2. Thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám,
tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 -
1975)
- Năm 1945 - 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân
vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề, chống thù trong, giặc ngoài, vừa
kháng chiến vừa kiến quốc: xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân;
bầu cử Quốc hội (6/1/1946); xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946);
chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân; chống giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam
Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực
phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; thực hành
sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp xâm
lược, lúc thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc để
triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những
thử thách hiểm nghèo. Chúng ta đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết
để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả
nước. Thành công nổi bật của hơn một năm xây dựng chính quyền non trẻ là đã
tăng cường được sức mạnh của cách mạng để có thể tự bảo vệ thành quả cách mạng
bằng sức mạnh của chính mình.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược Việt Nam một lần nữa của
thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến
với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ
kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng chiến dựa vào sức mình là chính, đồng thời
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt
Nam lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực
dân Pháp ở Việt Nam, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới,
giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu
phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đây là đặc điểm mang tính
đặc thù của cách mạng Việt Nam, cùng với mục tiêu độc lập dân tộc, mục tiêu xã
hội chủ nghĩa được đặt ra trực tiếp.
+ Đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Gơnevơ, hất chân thực dân Pháp,
độc chiếm miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự
của chúng. Dân tộc Việt Nam lại phải đương đầu với chủ nghĩa thực dân mới của
đế quốc Mỹ. Đảng đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, bảo vệ nền độc
lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân
được nâng lên tầm cao khoa học và nghệ thuật. Đương đầu với một đế quốc hùng
mạnh bậc nhất thế giới, nhân dân Việt Nam chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công
và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền
núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao
độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lần lượt đánh
bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ
vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng
lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong
những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế
và có tính chất thời đại sâu sắc.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc trong điều kiện hai miền
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với
nhau, trong điều kiện từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt
Nam phải vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh và kinh nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt
Nam tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản: giữa tiến hành chiến tranh
cách mạng với xây dựng chủ nghĩa xã hội; giữa hậu phương lớn với tiền tuyến
lớn; giữa thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữa quy luật
chiến tranh và quy luật xây dựng phát triển kinh tế; giữa đẩy mạnh chiến tranh
cách mạng ở Việt Nam với bảo vệ hòa bình thế giới; giữa lợi ích dân tộc với
thực hiện nghĩa vụ quốc tế…
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã thu được
những thành tựu quan trọng. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người,
sức của cho tiền tuyến, miền Bắc đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đánh thắng hai cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; xây dựng hậu phương vững mạnh, trở thành căn cứ
địa cách mạng của cả nước, bảo đảm mọi mặt cho tiền tuyến đánh thắng; mở rộng
quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước trên thế giới;
tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước; tạo những cơ sở
vật chất và những kinh nghiệm quý báu trong sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam sau này.
3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này bao gồm hai giai đoạn chủ
yếu:
* Từ 1975 đến 1986:
- Sau chiến tranh, đất nước gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh
đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh
chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia.
- Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa
xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và
nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập
trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong
việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có
nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm
đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng đã tổng kết sáng
kiến từ thực tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, thể hiện
qua các mốc sau: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khoá IV (tháng
8-1979); Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm
trong nông nghiệp; Quyết định 25/CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới
quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khoá V
(tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng
hoá; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 9/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình
hình mới.
Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật, Đại hội VI (tháng 12/1986) đã
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư
duy, trước hết là tư duy kinh tế, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới là sự lựa chọn khoa học
và cách mạng nhằm mục tiêu phát triển đất nước, trước hết là phát triển kinh
tế, là bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
* Từ 1986 đến nay:
- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII
của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các
lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất
nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Từ đó đến nay, Đảng tiếp tục phát triển tư duy lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới được bổ sung và phát
triển ngày càng hoàn thiện.
- Trải qua gần 30 năm phấn đấu bền bỉ, phải vượt qua biết bao khó
khăn thử thách, công cuộc đổi mới đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Bộ mặt đất nước có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế
tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Ðời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được
giữ vững. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế mới và
lực mới để đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Đến nay, Việt Nam
có đủ cơ sở để khẳng định rằng đổi mới đất nước là sự lựa chọn đúng đắn, đã đặt
Việt Nam vào quỹ đạo phát triển mới về chất, phù hợp với xu thế của thời đại và
với ý nguyện của nhân dân. Công cuộc đổi mới do Ðảng Cộng sản khởi xướng
và lãnh đạo từ Ðại hội VI đến nay là một công trình sáng tạo lớn.
Thực tiễn thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong quá trình đấu
tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 85 năm qua đã khẳng định: Đảng Cộng sản
Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.