Wednesday, November 25, 2015

Ý NGHĨA CỦA QUY ĐỊNH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013

Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ được xác lập trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của đất nước mà còn từng bước được ghi nhận trong các Hiến pháp Việt Nam (trong Lời nói đầu Hiến pháp năm 1959, trong Điều 4 Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013). Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập cho đến khi trở thành đảng cầm quyền, luôn được Nhà nước và cả xã hội thừa nhận, tôn vinh. Việc Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định về Đảng Cộng sản Việt Nam với những sửa đổi và bổ sung hoàn chỉnh hơn đã thể hiện những vấn đề cơ bản sau:
1. Tiếp tục khẳng định và bảo đảm bằng Hiến pháp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội
Đảng Cộng sản đầu tiên trên thế giới còn gọi là Đồng minh những người cộng sản được thành lập năm 1847 với tuyên ngôn nổi tiếng: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do Mác và Ăng-ghen soạn thảo năm 1848, trong đó đã nêu rõ: “giành chính quyền đã trở thành sứ mệnh vĩ đại của giai cấp công nhân”, đảng của giai cấp công nhân phải là đảng cầm quyền. Trên tinh thần đó “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranhlâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân” [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, sau khi lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã trở thành đảng cầm quyền ở Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt Nam “giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên CNXH” [2]
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam không chỉ quy định các vấn đề liên quan đến thiết chế Nhà nước, mà còn quy định về các tổ chức hỗ trợ cho Nhà nước thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân. Việc Hiến pháp ghi nhận về Đảng, Mặt trận, Công đoàn... càng tôn vinh thêm vai trò của Đảng cũng như các tổ chức chính trị - xã hội khác trong đời sống nhà nước và xã hội Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, Hiến pháp có quy định hay không quy định thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã, đang và sẽ tiếp tục lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam. Đây là một nhu cầu khách quan, là sự thừa nhận từ phía Nhà nước và xã hội Việt Nam đối với sự cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó cũng là trách nhiệm mà nhân dân giao phó cho Đảng và đồng thời là sự cam kết của Đảng đối với nhân dân, đất nước. Do vậy, việc tiếp tục quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp năm 2013 đã bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam. Điều này là hợp với ý Đảng, lòng dân trong điều kiện hiện nay: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, Nhân dân Việt Nam một lòng theo Đảng.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam không chỉ bởi Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc thành công, giành được chính quyền mà vai trò còn được thể hiện trong quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân chống đế quốc xâm lược, thực hiện thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước… từng bước mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật đòi hỏi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam phải được tiếp tục ghi nhận bằng Hiến pháp để bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam.
2. Củng cố tính chính đáng về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội trong Hiến pháp
Tính chính đáng về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được biểu hiện ở những điểm cơ bản sau: Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt nam “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” [3], do vậy, ở xã hội Việt Nam hiện nay, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ năng lực để đề ra được đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đúng đắn, phù hợp nhất, đáp ứng được mong muốn, nguyện vọng, lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam; thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam là “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” [4], do Đảng luôn phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc nên được giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc tin tưởng, giao phó vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội cho Đảng; thứ ba, không chỉ nhận cho mình vai trò lãnh đạo mà còn bằng những hoạt động thực tiễn, các tổ chức đảng và các cá nhân đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thể hiện mình là lực lượng tiên phong, luôn hy sinh quên mình suốt đời phấn đấu vì nhân dân, vì dân tộc nên luôn giữ được lòng tin của nhân dân và uy tín của lực lượng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Những quy định trên của Hiến pháp đã minh chứng cho mọi người thấy rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam là hoàn toàn chính đáng.
Những quy định trong Điều 4 Hiến pháp năm 2013 còn cho thấy, mặc dù hiện nay tình hình thế giới rất phức tạp, song Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không dao động trước những khó khăn, thách thức, vẫn tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bước biến những lý tưởng cộng sản cao đẹp thành hiện thực ở Việt Nam.
Tất cả những vấn đề nêu trên đã chứng tỏ sự cần thiết, tính chính đáng trong việc thiết lập và duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam trước đây, hiện nay và trong tương lai trong thực tế cũng như trong Hiến pháp.
3. Mở rộng cơ sở xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam 
Trong một xã hội tồn tại nhiều đảng phái thì mỗi đảng thường đại diện cho một lực lượng nhất định trong xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam khi mới ra đời được xác định là đội tiên phong chiến đấu của “giai cấp công nhân”, sau này là của “giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam”. Trong điều kiện hiện nay, để phù hợp với đặc điểm là một đảng duy nhất cầm quyền, thực hiện sự lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam đòi hỏi cơ sở xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam phải được củng cố, mở rộng. Điều này đã được Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X lý giải và khẳng định. Hiến pháp ghi nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc” [5], như vậy, đã củng cố, mở rộng thêm về mặt pháp lý cơ sở xã hội vững chắc của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng duy nhất vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân, vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Việc ghi nhận này vừa phù hợp với xu thế vận động và phát triển của tình hình chính trị - xã hội của đất nước, vừa phản ánh đúng bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn hiện nay. Đồng thời, việc ghi nhận như vậy còn cho thấy xã hội Việt Nam ngày càng thống nhất, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội Việt Nam ngày càng cao.
4. Nhấn mạnh không chỉ các tổ chức của Đảng mà tất cả đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
Mặc dù là một đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội xây dựng, thực hiện và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đặt mình dưới quyền lực của Hiến pháp và pháp luật, tự giác hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Nếu trong các Hiến pháp trước đây không quy định hoặc chỉ quy định: “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp” [6] hay “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [7], thì Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [8]. Có thể nói, đây cũng là một bước tiến bộ, thể hiện đầy đủ hơn tinh thần gương mẫu trong việc tôn trọng, thực hiện Hiến pháp và pháp luật của một Đảng cầm quyền trong Nhà nước pháp quyền. Điều này càng củng cố thêm về mặt pháp lý vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm tính hợp pháp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng là điều kiện để tăng cường nguyên tắc pháp chế trong mối quan hệ quyền lực giữa Đảng với Nhà nước và xã hội.
Quy định trên của Hiến pháp năm 2013 vừa bảo đảm được tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tránh được hiện tượng lạm quyền, chuyên quyền của các tổ chức đảng và các cá nhân đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong điều kiện chỉ tồn tại một đảng duy nhất trong xã hội. Quy định trên đồng thời cũng tránh được thói “kiêu ngạo cộng sản” của một số tổ chức đảng và cá nhân đảng viên trong hoạt động thực tiễn, nhất là trong quan hệ với Nhà nước và nhân dân.
5. Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình
Xuất thân từ nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Như vậy, một trong những nguyên tắc quan trọng của Đảng là gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân. Có thể khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Sự ghi nhận của Hiến pháp về sự gắn bó của Đảng với nhân dân càng làm cho trách nhiệm gắn bó với nhân dân của Đảng ngày càng cao.
Trong điều kiện chỉ có một đảng, thì bảo đảm quyền lực nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phục vụ nhân dân là vấn đề sống còn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, từ chỗ chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến tới “đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Vì vậy, Đảng được nhân dân thương yêu, cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ, thừa nhận là “Đảng ta”, Đảng của mình. Đây là vinh dự lớn mà không phải đảng nào trên thế giới cũng có được và điều này cũng thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với nhân dân. Do vậy, Đảng cũng xác định nhiệm vụ của mỗi đảng viên là phải gắn bó mật thiết với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, chứng tỏ mình là người ưu tú qua thực tiễn hoạt động. Đảng viên phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội ở nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối chính sách và pháp luật [9].
Việc Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” [10], thể hiện sự cam kết của Đảng trước nhân dân, tinh thần trách nhiệm cao của Đảng, sự dũng cảm, dám chịu trách nhiệm của Đảng, đồng thời cũng thể hiện sự tự tin của Đảng trong việc đưa ra những quyết định quan trọng liên quan tới sự phát triển của đất nước.
6. Nhận thức đúng và có những giải pháp hữu hiệu để thực hiện quy định của Hiến pháp về Đảng Cộng sản Việt Nam
Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được quy định khá đầy đủ trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013, song đó mới chỉ là những bảo đảm về Hiến pháp đối với sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Vấn đề quan trọng hiện nay là phải nhận thức đúng và có những giải pháp hữu hiệu để sao cho những quy định đó trong Hiến pháp đi vào cuộc sống. Để thực hiện các quy định của Hiến pháp về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, về tất cả các quy định khác nói chung, đòi hỏi các tổ chức của Đảng, các đảng viên của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, toàn thể nhân dân Việt Nam phải:
Thứ nhất, không ngừng nâng cao nhận thức về Hiến pháp và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, về con đường, phương thức đi lên CNXH của Việt Nam trong điều kiện hiện nay...
Thứ hai, để khẳng định tính chính đáng về vai trò lãnh đạo của mình đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải thể hiện vai trò tiên phong về tổ chức, về tư tưởng lý luận và về hành động cách mạng, gương mẫu và kiên định vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc để nâng cao hơn nữa uy tín của mình ở trong nước cũng như trên trường quốc tế. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải là những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân, trong nhân dân lao động và trong cả dân tộc Việt Nam. Kiên quyết đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi hàng ngũ của Đảng.
Thứ ba, để thực hiện sự gắn bó chặt chẽ với nhân dân đòi hỏi đảng viên và các tổ chức đảng phải tôn trọng nhân dân, cùng sống, lao động, sinh hoạt với nhân dân. Lắng nghe ý kiến của nhân dân, những quyết sách quan trọng nhất trong đường lối, chính sách của Đảng phải có sự tham gia, đóng góp ý kiến của nhân dân. Bảo đảm để các cuộc bầu cử diễn ra với những quy trình thực sự dân chủ, đúng pháp luật để nhân dân lựa chọn được đúng người đại diện xứng đáng của mình vào các cơ quan đại biểu. Có cơ chế để nhân dân giám sát hoạt động của các tổ chức đảng, các cá nhân đảng viên. Các tổ chức đảng và các cá nhân đảng viên phải thường xuyên báo cáo, thông tin với nhân dân về những hoạt động của tổ chức mình. Xây dựng cơ chế chịu trách nhiệm của Đảng trước nhân dân về những quyết định của Đảng bằng việc cụ thể hóa trách nhiệm mà Đảng phải chịu trước nhân dân đã được Hiến pháp quy định.
Thứ tư, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, cần đề cao vị thế của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị đất nước. Phải làm sao cho tất cả những nhà cầm quyền dù là quyền lực nhà nước, quyền lực của tổ chức đảng hay quyền lực của bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào trong xã hội cũng phải được ràng buộc bởi Hiến pháp và pháp luật. Cần thiết lập cơ chế để Hiến pháp thực sự được đề cao, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, bảo đảm cho các quy định của Hiến pháp và pháp luật luôn có hiệu lực thực tế, phát huy được vai trò, tác dụng của mình trong cuộc sống. Không ngừng xây dựng, hoàn thiện Điều lệ Đảng và hệ thống pháp luật để xác định rõ hơn, cụ thể hơn chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước các cấp và mối quan hệ giữa chúng. Về phía Nhà nước, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, về tổ chức Đảng và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Chi tiết, cụ thể hóa vai trò lãnh đạo của Đảng trong các văn bản luật và văn bản dưới luật. Các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước phải xác định một cách chính xác những vấn đề gì thì các cơ quan của Đảng quyết định, những vấn đề gì có sự phối hợp giữa Đảng với Nhà nước, những vấn đề gì Nhà nước chủ động thực hiện và báo cáo với tổ chức đảng... Không nên để tình trạng các tổ chức đảng lãnh đạo chung chung, dẫn đến có thể bao biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng.
Thứ năm, trong điều kiện hiện nay phải: “đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức” [11], “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, đặc biệt là các lãnh tụ của Đảng [12], phải thể hiện được tính tiên phong của mình để xây dựng đúng, chính xác lý luận về Nhà nước pháp quyền và một Đảng cầm quyền trong Nhà nước pháp quyền, đồng thời phải: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo…” [13]. Như vậy, có thể nói “xây dựng Đảng là một nhiệm vụ trọng yếu, là nhân tố quyết định để giữ vững vai trò và nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng” [14], để Đảng thực sự xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như Hiến pháp khẳng định.
Phải nghiên cứu bố trí sắp xếp cán bộ cho bộ máy đảng và bộ máy nhà nước phù hợp để có thể phát huy được năng lực, trí tuệ của mỗi người, nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi bộ máy. Điều này đòi hỏi Đảng phải đảm bảo tính hiệu quả trong lãnh đạo, phải hóa thân vào Nhà nước, phải chịu trách nhiệm về những quyết sách và hoạt động của mình trước giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, Hiến pháp năm 2013 mặc dù rất ngắn gọn nhưng đã ghi nhận và thể hiện được về mặt pháp lý tính tiên phong, năng lực tiên phong, tư cách tiên phong của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền ở Việt Nam, thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam./. 

[1] Lời nói đầu Hiến pháp năm 2013
[2] Lời nói đầu Hiến pháp năm 2013
[3] Điều 4 Hiến pháp năm 2013
[4] Điều 4 Hiến pháp năm 2013
[5] Điều 4 Hiến pháp năm 2013
[6] Điều 4 Hiến pháp năm 1980
[7] Điều 4 Hiến pháp năm 1992
[8] Điều 4 Hiến pháp năm 2013
[9] Xem, Điều 2 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
[10] Điều 4 Hiến pháp năm 2013
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 316.
[12] Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sdd, tr. 255.
[13] Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sdd, tr. 246.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sdd,, tr.330.

Tác giả: Nguyễn Minh Đoan, PGS, TS. Đại học Luật Hà Nội.

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

         Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với đường lối đúng đắn, dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lê-nin, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử loài người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp nhân dân yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân, phong kiến vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt 85 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được những thắng lợi vĩ đại.
1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
- Đặc điểm của thời kỳ này là cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam phát triển theo xu thế của thời đại đã được mở ra từ cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.
- Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền đã diễn ra với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa như 3 cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân: Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945 (1939 - 1945). Đó là quá trình đấu tranh cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ của Đảng và dân tộc Việt Nam.
- Thực tiễn 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và nhân dân Việt Nam đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc, đó là:
+ Quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa mục tiêu dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
+ Quan hệ giữa các mục tiêu chiến lược lâu dài và mục tiêu cụ thể trước mắt, giữa giành thắng lợi từng bước, khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
+ Quan hệ giữa chiến lược và sách lược, phương pháp cách mạng, sử dụng đúng đắn các hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp với từng điều kiện lịch sử cụ thể.
+ Quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa xây dựng đảng và xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng của quần chúng được tập hợp trong Mặt trận Dân tộc thống nhất.
+ Quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữa xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh bên trong, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, độc lập, tự chủ và sáng tạo với tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình hình quốc tế đem lại.
+ Quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy lùi nguy cơ, tổ chức và sử dụng các lực lượng cách mạng…
- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”; “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”[1].
2. Thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975)
- Năm 1945 - 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề, chống thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc: xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; bầu cử Quốc hội (6/1/1946); xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp xâm lược, lúc thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc để triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Chúng ta đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. Thành công nổi bật của hơn một năm xây dựng chính quyền non trẻ là đã tăng cường được sức mạnh của cách mạng để có thể tự bảo vệ thành quả cách mạng bằng sức mạnh của chính mình.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng chiến dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đây là đặc điểm mang tính đặc thù của cách mạng Việt Nam, cùng với mục tiêu độc lập dân tộc, mục tiêu xã hội chủ nghĩa được đặt ra trực tiếp.
+ Đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Gơnevơ, hất chân thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Dân tộc Việt Nam lại phải đương đầu với chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đảng đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân được nâng lên tầm cao khoa học và nghệ thuật. Đương đầu với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, nhân dân Việt Nam chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc trong điều kiện hai miền thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, trong điều kiện từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản: giữa tiến hành chiến tranh cách mạng với xây dựng chủ nghĩa xã hội; giữa hậu phương lớn với tiền tuyến lớn; giữa thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữa quy luật chiến tranh và quy luật xây dựng phát triển kinh tế; giữa đẩy mạnh chiến tranh cách mạng ở Việt Nam với bảo vệ hòa bình thế giới; giữa lợi ích dân tộc với thực hiện nghĩa vụ quốc tế…
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã thu được những thành tựu quan trọng. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, miền Bắc đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; xây dựng hậu phương vững mạnh, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, bảo đảm mọi mặt cho tiền tuyến đánh thắng; mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước trên thế giới; tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước; tạo những cơ sở vật chất và những kinh nghiệm quý báu trong sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau này.
3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này bao gồm hai giai đoạn chủ yếu:
Từ 1975 đến 1986:
- Sau chiến tranh, đất nước gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
- Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng đã tổng kết sáng kiến từ thực tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, thể hiện qua các mốc sau: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khoá IV (tháng 8-1979); Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; Quyết định 25/CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khoá V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 9/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới.
Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI  (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới là sự lựa chọn khoa học và cách mạng nhằm mục tiêu phát triển đất nước, trước hết là phát triển kinh tế, là bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. 
Từ 1986 đến nay:
- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Từ đó đến nay, Đảng tiếp tục phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới được bổ sung và phát triển ngày càng hoàn thiện.
- Trải qua gần 30 năm phấn đấu bền bỉ, phải vượt qua biết bao khó khăn thử thách, công cuộc đổi mới đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Bộ mặt đất nước có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Ðời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế mới và lực mới để đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Đến nay, Việt Nam có đủ cơ sở để khẳng định rằng đổi mới đất nước là sự lựa chọn đúng đắn, đã đặt Việt Nam vào quỹ đạo phát triển mới về chất, phù hợp với xu thế của thời đại và với ý nguyện của nhân dân. Công cuộc đổi mới do Ðảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo từ Ðại hội VI đến nay là một công trình sáng tạo lớn.

Thực tiễn thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong quá trình đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 85 năm qua đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Bối cảnh ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
- Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
b. Bối cảnh trong nước
* Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
- Về chính trị: Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
- Về kinh tế: Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
- Về văn hoá: Thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.
- Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
- Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
* Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
- Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
- Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
- Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
- Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
- Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
- Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường cách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
- Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
b. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 năm 1930
- Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.
- Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
- Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
3. Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
- Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 85 năm qua.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.